Tuyển chọn những bài văn nghị luận xã hội Lớp 9 (Có lời giải)

docx 252 trang Thu Mai 06/03/2023 3070
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tuyển chọn những bài văn nghị luận xã hội Lớp 9 (Có lời giải)", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxtuyen_chon_nhung_bai_van_nghi_luan_xa_hoi_lop_9_co_loi_giai.docx

Nội dung text: Tuyển chọn những bài văn nghị luận xã hội Lớp 9 (Có lời giải)

  1. TUYỂN CHỌN CÁC BÀI VĂN NGHỊ LUẬN XÃ HỘI LỚP 9 CÓ LỜI GIẢI Đề bài: Cảm nhận của em về tình đồng đội qua truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê. Theo em, truyện ngắn và đoạn thơ gặp nhau ở điểm nào ? “Đồng đội xa Là hớp nước uống chung Nắm cơm về nữa Là chia nhau một trưa nắng một chiều hôm Chia khắp anh em mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chia nhau nụ cười, chia nhau cái chết” (“Giá từng thước đất” – Chính Hữu) Nguyễn Đỗ An Khương- Lớp 9a16 Một tác phẩm văn học có sống mãi trong tấc lòng biết bao bạn đọc hay không, nếu nó không bám rễ sâu vào mảnh đất hiện thực màu mỡ, âm thầm hút lấy nguồn nhựa sống dồi dào mãnh liệt ? Một tác phẩm văn học, có trường tồn mãi với năm tháng bạt ngàn hay không, nếu nó hoàn toàn chỉ là những hiện thực méo mó, nếu nó chỉ chứa đựng những rung cảm hời hợt ? Và ắt hẳn, khi đến với “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê, với tình đồng đội gắn bó đã để lại ấn tượng đẹp trong độc giả, khẳng định sức trường tồn của mình. Có lẽ, truyện ngắn trên đã gặp gỡ ở điểm chung, về tình-đồng- đội-giữa-năm-tháng chiến tranh, với bài thơ “Giá từng thước đất của Chính Hữu trong những câu thơ sau: “Đồng đội xa Là hớp nước uống chung Nắm cơm về nữa Là chia nhau một trưa nắng một chiều hôm Chia khắp anh em mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chia nhau nụ cười, chia nhau cái chết” Tiếp cận chiến tranh, miêu tả chiến tranh có nhiều cách, của nhiều người. Tuy nhiên, chiến tranh đã đi qua, cái gì từ những trang văn còn lại ? Nó có là hiện thực khốc liệt của chiến tranh, là những người lính phải hy sinh, là những dư tàn mà chiến tranh để lại cho những con người sống trên mảnh đất ấy, là bầu trời đen ngòm mùi thuốc súng gây ám ảnh cho những thế hệ ? Nó có là ca tụng những người cách mạnh đã dám hy sinh bản thân, hy sinh đất nước để đuổi theo chân lý cao cả về lẽ sống đẹp ? Nó có là sự mất mát, tang thương, nỗi dằn vặt của mỗi người lính khi rời xa chính gia đình, quê hương thân yêu của mình ? Đương nhiên rồi, nó còn là vẻ đẹp của tình đồng đội, dựa dẫm vào nhau để bươn chải những ngày sống tiếp theo, giữa ngày tháng cơ hàn, giữa nỗi thống khổ về trách nhiệm con người trong gia đình, giữa nỗi sợ hãi về cái chết, để lấp đầy những khoảng trống trong tâm hồn nhau. Và “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê ra đời để làm việc ấy, để lấp-đầy-khoảng-trống,
  2. hiện lên bức tranh đẹp về tình cảm gắn kết giữa những cô gái phá bom. Cũng cùng chủ đề ấy, Chính Hữu viết nên “Giá từng thước đất”. Ra đời giữa những năm tháng chiến tranh, hai tác phẩm gieo rắc những cảm xúc tích cực về khoảng thời gian chiến tranh ấy, khắc họa thật đẹp tình cảm keo sơn ấy. “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê – khoảng trời của những người con gái, sợi dây tình cảm của những thiếu nữ xung phong. Tình đồng đội, đoàn kết sáng rực lên giữa bầu trời đen tối của chiến tranh. Ta cảm nhận về tình cảm của Phương Định: “Tôi moi đất, bế Nho đặt trên đùi mình”. Và cô cảm nhận: “Nó không giống que kem trắng của tôi khi nãy nữa”. Đó là Nho qua cái nhìn của Phương Định, một cái nhìn đầy xót thương, thương cảm. Nỗi đau của đồng đội hay cũng là nỗi đau của chính mình. Cô ân cần, chăm sóc chu đáo cho đồng đội. Cô mê hát lắm, nhưng giờ đây cô không hát nữa rồi hay không thể hát nữa, ngay cả khi Thao yêu cầu – “Tôi không muốn hát lúc này”. Vì sao ư ? Vì đồng đội đã đổ máu cho sự độc lập, tự do của đất nước. Cái thiêng liêng cao cả ấy nào có lời nói diễn tả được trọng vẹn. Hay liệu, vì lo lắng cho đồng đội bị thương, cô không còn tâm trạng để hát nữa. Tiếng hát là gì, và vì sao người ta lại muốn hát ? Tiếng hát tượng trưng cho niềm vui, hạnh phúc hay cũng là mong muốn được niềm vui, hạnh phúc. Điều này chắc chắn sẽ lý giải được trong trường hợp này. Phương Định chẳng còn muốn hát, vì cô buồn lắm, cô chỉ còn tâm trạng lo lắng, bất an cho đồng đội. Ở Phương Định luôn sáng ngời tình đồng đội thắm thiết. Cô luôn yêu thương trìu mến và quan tâm đến đồng đội, điều đó còn thể hiện ở những điều khac. Cô luôn yêu thương trìu mến và quan tâm đến đồng đội. Cô lo lắng cho chị Thao và Nho lên cao điểm chưa về đến về nỗi nói “như gắt vào máy” khi đại đội trưởng hỏi tình hình. Cô hiểu chị Thao và Nho như biết về những chị em ruột thịt. Đó là chị Thao sợ máu nhưng khi chiến đấu thì rất dũng cả. Trong công việc, ai cũng gờm chị bởi sự bình tĩnh, cương quyết và táo bạo. Với Nho, cô em út của tổ trinh sát thì Phương Định rất muốn bế trên tay “Trông nó nhẹ mát như một que kem trắng”. Biết bao trìu mến, yêu thương trong cái nhìn ấy. Đặc biệt cô dành tình yêu và niềm cảm phục cho tất cả những người chiến 5sĩ mà cô gặp ngày đêm trên con đường ra trận. Với cô đó là “những người đẹp nhất, thông minh, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ”. Tình đồng chí đồng đội của Phương Định thật thiêng liêng, cao cả và đáng quý! Có lẽ chính nhờ những điều này đã tiếp thêm sức mạnh cho cô để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Có lẽ, tình đồng đội đồng chí giữa những ngày tháng cơ hàn, vất vả trong chiến tranh là nguồn cảm hứng sáng tác vô tận cho những người nghệ sĩ. Tiếp theo dòng chảy văn học ấy, Chính Hữu viết nên những dòng thơ “Giá từng thước đất”: “Đồng đội xa Là hớp nước uống chung Nắm cơm về nữa Là chia nhau một trưa nắng một chiều hôm Chia khắp anh em mẩu tin nhà Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp Chia nhau nụ cười, chia nhau cái chết” Chính Hữu định nghĩa về đồng đội, hay chính xác hơn, tình đồng đội như thế nào ? Đó là những “hớp nước uống chung”, là “năm cơm về”, là sự chia sẻ. Chia sẻ như thế nào và chia
  3. sẻ vê cái cái gì ? Đâu chỉ là chia sẻ những giá trị vật chất, chính sự chia sẻ giá trị về tinh thần mới tạo nên sự đồng đội trong tâm hồn của những con “đồng chí”. Nhà phê bình Hoài Thanh có viết: “Hầu hết những người manh ba lô lặng lẽ đi khắp nẻo đường kháng chiến trong một quyển sách nào đó thế nào cũng có ít bài thơ Trong cuộc chiến nhân dân của của chúng ta, tiếng súng, tiếng thơ cùng hòa điệu.” Những người cầm bút lúc này sẽ là những người chiến sĩ dùng ngòi bút mà xông pha chiến trận. Họ khỏa đầy tâm hồn những con người ấy bằng các câu từ. Đối tượng mà họ viết là những người lính, và họ viết về chính những người lính ấy để nâng đỡ những người lính. Bằng vài câu thơ đẹp về tình đồng chí, về những hình ảnh được gợi mở, Chính Hữu đã thành công trong việc này Những người lính, những cô thanh niên xung phong đã thật sự để lại trong lòng người đọc ấn tượng khó quên về tình cảm keo sơn gắn bó giữa những con người ấy. Đó đâu chỉ là nam giới, là những chàng lính, đó còn là nữ giới, là những cô thanh niên xung phong. Họ hiện lên thật đẹp bởi lý tưởng cao cả của họ, bởi tình cảm giữa những con người ấy. Hai bài thơ gặp nhau ở điểm chung ấy, về tình cảm cao cả, đáng quý họ dành cho nhau giữa những ngày tháng cơ hàn, cực khổ, giữa những năm tháng chiến tranh. Như mặt trời sưởi ấm những ngày đông lạnh giá, như mặt trăng soi sáng cho những đêm mịt mỳ, văn chương len lỏi và thắp sáng những góc khuất trong trai tim của độc giả, những tâm hồn trơ trọi ấy đến với cõi chân-thiện-mỹ, cái cõi của nhiệm màu và hạnh phúc. Thế nên, những tác phẩm trong thời kỳ văn học cách mạng luôn lấy con người là đối tượng trung tâm, đặc biệt là những người lính, viết về họ, ca ngợi họ và củng cố tinh thần họ. Đâu chỉ có thể, đó còn là để những người đọc như chúng ta sau này cảm nhận vẻ đẹp tinh thần, vẻ đẹp của những con người ở chiến trường. Hai tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê và”Giá từng thước đất” đã hoàn thành trọn vẹn cái nhiệm vụ cao cả ấy của văn chương. Giáo viên: Nguyễn Thị Nhuần Email: nhuanhathu@gmail.com Đề bài. Nếu bỏ qua chi tiết “ chiếc bóng”,theo anh (chị) tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ sẽ trở nên như thế nào? Từ đó,hãy cảm nhận về giá trị của chi tiết này trong tác phẩm. Bài làm: Nghệ thuật là hình thái đặc trưng,hình thành từ tìm tòi,khám phá của người nghệ sĩ về hiện thực đời sống. Nghệ thuật mang đến cái nhìn toàn diện và đầy đủ về xã hội,thể hiện
  4. những quan điểm của người nghệ sĩ ,từ đó tác động mạnh mẽ đến nhận thức,tình cảm, cảm xúc của người tiếp nhận. Chính vì vậy,nghệ thuật luôn ẩn chức sứ mệnh cao cả và thiêng liêng,góp phần làm đẹp cho cuộc đời. Ai đó đã từng nói: “ Chi tiết nghệ thuật là hạt bụi vàng của tác phẩm” .Nó có thể nhỏ bé như một hạt cát nhưng đủ để độc giả hình dung về một sa mạc mênh mông. Chi tiết nghệ thuật có thể chỉ như một giọt nước nhưng gợi được biển cả vô cùng vô tận. Chi tiết “ chiếc bóng” trong tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ là một chi tiết nghệ thuật đắt giá như thế. Chuyện người con gái Nam Xương – tác phẩm trích trong tập Truyền kì mạn lục một tác phẩm văn xuôi có giá trị của văn học cổ nước ta thế kỉ XVI,tập truyện văn xuôi đầu tiên viết bằng chữ Hán ở Việt Nam. Nhân vật chính là Vũ Nương,một phụ nữ đẹp người ,đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan trước sự ghen tuông vô cớ của chồng mình. Đúng như văn hào người Nga M.Go-rơ- ki từng nói: “ Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”.Chi tiết nghệ thuật là những yếu tố nhỏ lẻ của tác phẩm nhưng mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư tưởng. Sức chinh phục của hình tượng nghệ thuật là ở sự truyền cảm thì yếu tố quyết định sức truyền cảm,hấp dẫn người đọc là ở chi tiết. Nhờ có những chi tiết mà các sự việc trong cốt truyện được triển khai và phát triển hợp lí,tự nhiên. Thông qua chi tiết mà cảnh trí,tình huống,tính cách tâm trạng,hình dáng và số phận của nhân vật được khắc họa,bộc lộc đầy đủ,rõ nét. Trong một tác phẩm văn học,chi tiết là sự đặc tả cụ thể tạo nên sức hấp dẫn,chứa đựng tư tưởng nghệ thuật của nhà văn và tác phẩm. Chi tiết “ chiếc bóng” được đánh giá là chi tiết đặc sắc và đắt giá nhất,bởi nó mang ý nghĩa sâu sắc và dụng ý to lớn đối với toàn bộ thiên truyện. Chi tiết “chiếc bóng” xuất hiện hai lần trong tác phẩm và đều ở phần giữa của thiên truyện. Cả hai lần chi tiết ấy đều gián tiếp xuất hiện trong lời nói của nhân vật bé Đản – con trai của Vũ Nương và Trương Sinh. Lần đầu là khi Trương Sinh mới trở về sau chinh chiến,nghe chàng xưng là cha,bé Đản không khỏi ngac nhiên: “ Ô hay ! Thế ra ông cũng là cha tôi ư?”. Bởi : “ Trước đây thường có một người đàn ông,đêm nào cũng đến,mẹ Đản đi cũng đi,mẹ Đản ngồi cũng ngồi,nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”. Lần thứ hai là khi Vũ Nương đã trẫm mình xuống dòng Hoàng Giang,khi đó một mình ngồi bên con trong đêm khuya thanh vắng,Trương Sinh vỡ òa trong đau đớn khi nhận ra chiếc bóng là điều mà bé Đản nói đến bấy lâu nay khi đứa con ngây thơ chỉ bóng chàng trên vách tường: “ Cha Đản lại đến kia kìa!”. Là một điểm sáng thẩm mĩ của tác phẩm,chi tiết “chiếc bóng” có vị trí không thể thiếu trong sự phát triển của cốt truyện,gắn liền với bước ngoặt trong cuộc đời của Vũ Nương. Trước hết,chi tiết “ chiếc bóng” là điểm thắt nút đẩy kịch tính của câu chuyện lên cao độ trong chuỗi sự việc của tác phẩm. Nhờ đó, Nguyễn Dữ đã xây dựng được một tình huống truyện đầy ngẫu hứng nhưng lại logic,chặt chẽ và cũng rất tự nhiên. Người xưa vẫn dạy: “ Ra đường hỏi già,về nhà hỏi trẻ”. Lời nói của bé Đản vì thế càng khiến cho Trương Sinh tin tưởng không chút nghi ngờ nhiều điểm chưa rõ ràng trong đó. Nhưng quả thực bé Đản cũng không nói sai. Vấn đề nằm ở sự thiếu rõ ràng trong câu nói lại đặt vào bản tính đa nghi ,hay ghen,bảo thủ của Trương Sinh,chính điều này đã đẩy Vũ Nương vào một tình huống nghiệt ngã không lối thoát. Nếu như không có chi tiết “chiếc bóng”,có thể nói ,thật khó có thể tạo nên tình huống độc đáo và thử thách đến vậy cho nhân vật bộc lộ vẻ đẹp phẩm chất của mình.
  5. Chi tiết “ chiếc bóng” chính là hạt nhân tích trữ nỗi oan và cũng là cơn gió mùa thu giải oan cho Vũ Nương. Lần thứ hai xuất hiện,”chiếc bóng” không lời đã giải thích cho Trương Sinh hiểu rõ nỗi oan khuất của vợ mình. Trăm lời thanh minh của Vũ Nương,nghìn lời bênh vực của bà con hàng xóm cũng không bằng một tích tắc Trương Sinh nhìn theo tay bé Đản thấy “ chiếc bóng” trên vách tường nhà. Trương Sinh vì đa nghi ,bảo thủ và ghen tuông mù quáng mà hại chết vợ nhưng rồi bản thân chàng cũng không có được hạnh phúc,nhận ra “chiếc bóng” chính là “người cha” hằng đêm của con,chàng hiểu ra bao nhiêu cơ sự. Chàng không chỉ hiểu nỗi oan của vợ mà còn hiểu tình thương con vắng bóng cha của vợ mình,không chỉ nhận ra sai lầm của bản thân mà có lẽ chàng cũng đã tự phá vỡ hạnh phúc tròn đầy mà mình đã từng có. Chẳng cầu kí và dài dòng làm gì,chỉ một chi tiết nhỏ thôi nhưng cũng đủ để người đọc thấy được tài năng của Nguyễn Dữ,chiếc bóng kia đến một cách vô tình – nó không lời,lặng thầm mà lại phản ánh sự rủi ro,bất hạnh đầy ngẫu nhiên,phản ánh hạnh phúc mong manh của con người trong cuộc sống. Từ chi tiết này,mỗi nhân vật trong câu chuyện đều tự bộc lộ những tâm trạng,vẻ đẹp của mình. Chàng Trương sinh đa nghi,bảo thủ và mù quáng; nàng Vũ Nương bất hạnh,thiệt thòi; bé Đản ngây thơ và vô tình mất mẹ vì một sự hiểu lầm tai hại bởi chính lời nói non dại của mình. Có thể khẳng định,chi tiết “ chiếc bóng” không chỉ có ý nghĩa sống còn với cốt truyện và tình huống truyện mà nó còn dồn nén tình cảm sâu sắc của các nhân vật. Với Vũ Nương, “chiếc bóng”chính là sự hiện hữu của tấm lòng nhớ chồng,thương con,không muốn con nhỏ thiếu thốn vắng bóng cha nên mới nói “ chiếc bóng” trên vách tường kia là cha bé Đản. Đó là lời nói dối,nhưng nó xuất phát từ tình yêu thương con tha thiết của người phụ nữ. Với bé Đản,mới ba tuổi nên còn ngây thơ và hồn nhiên,chưa hiểu hết những điều phức tạp nên đã tin về một người cha như thế,đêm nào cũng đến,hiện hữu trên vách tường nhà,dưới ngọn đèn dầu đêm khuya. Với Trương Sinh, “chiếc bóng” vừa là một bài học cay đắng,vừa cho thấy sự độc đoán và mù quáng của chàng khi chút giận lên vợ mình. Với tác phẩm,chi tiết”cái bóng” là đỉnh điểm thắt nút câu chuyện,đem lại bước ngoặt và xung đột sâu sắc cho tác phẩm.Yếu tố kịch tính càng được đẩy lên đến gay gắt và quyết liệt hơn khi Trương Sinh không chịu nói ra.không kể lời con nói mà chỉ lấy chuyện bóng gió mắng nhiếc,đánh đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà. Đây cũng là một tình huống giúp Nguyễn Dữ đặc tả thân phận của người phụ nữ trong xã hội xưa: Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. (Trích Truyện Kiều- Nguyễn Du) Hay như: Thân em như giếng giữa đàng,
  6. Người khôn rửa mặt người phàm rửa chân. (Ca dao) Như vậy,nỗi oan của Vũ Nương được buộc bởi chính hành động của nàng mỗi ngày,bởi lời của đứa đứa con mà nàng dứt ruột đẻ ra,và bởi sự tàn nhẫn của người chồng mà nàng hết lòng thủy chung. Nàng rơi vào bi kịch của chính “ cái bóng” của mình,hạnh phúc bao lâu nay mà Vũ Nương luôn cố gắng vun đắp, “ giữ gìn khuôn phép” đã tan thành mây khói không thể nào cứu vãn nổi. Hạnh phúc với người phụ nữ thật mong manh,ngắn ngủi,luôn có những bất trắc,rủi ro,nghịch lí vận vào cuộc đời họ,đẩy họ tới bước đường cùng. Cũng như chi tiết “chiếc lá thường xuân” trong truyện ngắn Chiếc lá cuối cùng của nhà văn O.Hen ri. “Chiếc bóng” trên vách tường là người giả , “ chiếc lá” trên tường là lá giả,nhưng hai chi tiết ở hai thiên truyện,hai cái giả ấy đã đẩy cốt truyện lên cao trào,đã đưa đến hai sự thật đối nghịch nhau: cái chết oan khuất và sự sống ý nghĩa. Con người vững lòng tin ở sự sống trong việc chờ chồng nuôi con như Vũ Nương vì “cái bóng” mà phải tìm đến cái chết; còn con người đang tuyệt vọng trong cuộc chiến với bệnh tật,đang đi dần vào cõi chết như Giôn-xi lại tìm thấy sự sống. Hai chi tiết nghệ thuật với những quan niệm nhân sinh sâu sắc mà mỗi tác giả muốn gửi gắm,chứa đựng cảm xúc và tư tưởng đáng quý trọng. “Chiếc bóng” tạo sự bất ngờ,tính hấp dẫn của tình huống,sự chặt chẽ cho cốt truyện,tạo sự thắt nút mở nút rất hợp lí. Chi tiết này được để xuống cuối phần thứ hai của truyện,sau khi Vũ Nương không còn nữa,chuyện đau xót nhất đã xảy ra và sai lầm không thể làm lại,mâu thuẫn được đẩy lên đỉnh điểm thành bi kịch. Do đó tính tố cáo càng sâu sắc,mạnh mẽ hơn. Điều này thể hiện tài năng của Nguyễn Dữ. Như vậy,chi tiết này thể hiện rất rõ tư trưởng nhân đạo (thương xót,đồng cảm với những người phụ nữ bất hạnh,bênh vực người phụ nữ,phê phán tư tưởng trọng nam, khinh nữ,thói gia trưởng ích kỉ của những người đàn ông trong xã hội phong kiến ), đồng thời cũng cho thấy tài năng của tác giả. Chi tiết nghệ thuật “chiếc bóng” cùng tác phẩm chuyện người con gái Nam Xương là lời tố cáo xã hội phong kiến vùi dập một người phụ nữ xinh đẹp và đức hạnh,cướp đi hạnh phúc mà đáng lí ra Vũ Nương phải được hưởng. Đồng thời,nó cũng là lời nhắc nhở mỗi chúng ta trong cuộc sống không nên vội vàng phán xét người khác khi những mối nghi ngờ diễn ra cần thẳng thắn giải quyết. Cuộc sống luôn chứa đựng những rủi ro khó lường,nên mỗi khoảnh khắc và những gì mình đang có đều đáng được người mẹ người chị trong gia đình trân trọng bởi họ là những người vun vén hạnh phúc bằng tất cả sự hi sinh thầm lặng,sự tảo tần và tình yêu thương hết mình vì cuộc sống hạnh phúc gia đình. Mỗi tác phẩm văn học xuất sắc giống như một “tảng băng trôi”(Hê-min-uê) ôm chứa trong lòng nó biết bao giá trị tiềm ẩn. Những chi tiết đắt giá có ý nghĩa như tấm gương soi giúp người đọc nhìn thấu vẻ đẹp và giá trị tiềm ẩn đó. Và “chiếc bóng” cũng chính là một chi tiết đáng quý như vậy trong Chuyện người con gái Nam Xương. Đi qua một hành trình gần năm thế kỉ,bụi thời gian đã phủ dày lên mọi vật trên cuộc đời này,thế nhưng sức sống cùng vẻ đẹp nhân sinh mà
  7. Nguyễn Dữ đã gửi vào trang truyện thì vẫn tỏa sáng. Chuyện người con gái Nam Xương giống như một chiếc vỏ ốc nhỏ bé mong manh song lấp lánh sắc màu và từ đó ngân lên những tiếng thì thầm của đại dương sâu thẳm,ngân lên những khúc ca về cuộc sống,tình yêu và khát vọng muôn đời. Giáo viên: Nguyễn Thị Hồng Quyên Đơn vị: THCS Thị Trấn Sóc Sơn (Hà Nội) Email: nguyenthihongquyen1985@gmail.com Đề bài: Vẻ đẹp hình ảnh “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (Đồng Chí- Chính Hữu) và “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” (Bài thơ về tiểu đội xe không kính-Phạm Tiến Duật). Bùi Vũ Hà Chi Lớp 9A (Năm học: 2018-2019) Bài làm Trong “ Bài thơ áo lính” nhà thơ Thúy Hoàng từng viết về hình ảnh anh bộ đội cụ Hồ: “ Chiến trường xưa nhìn lại các anh kìa Vẫn xứng đáng màu áo kia trân quý Những đức tính lính Bác Hồ tận tụy Vì non sông, đất nước đã quên mình.” Chiến tranh đã lùi xa nhưng hình ảnh những người lính cụ Hồ năm xưa vẫn còn mãi với thời gian, vẫn trường tồn cùng dân tộc. Đó là những hình ảnh giản dị, chân thực mà đẹp đẽ về cuộc đời người lính- những con người ngày đêm bám trụ nơi tuyến đầu để chiến đấu và hi sinh quên mình cho đất nước. Những hình ảnh trân quý ấy đã đi vào thi ca , trở thành nguồn đề tài vô giá trong sáng tác nghệ thuật. Bắt trọn hình ảnh đẹp đẽ đó, Chính Hữu và Phạm Tiến Duật không bằng ngòi bút tô vẽ nhưng cũng đủ tái hiện hình ảnh đẹp nhất của một thời máu lửa- nơi những con người đã viết nên huyền thoại trong các tác phẩm của mình. Cả “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật đều ra đời trong những thời khắc nguy nan nhưng vẻ vang của lịch sử dân tộc đã truyền tải đến người đọc những tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó, đồng cảm, sẻ chia vô cùng thiêng liêng chỉ bằng “cái bắt tay” tình nghĩa “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay” (Đồng chí, Chính Hữu) và “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” (Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Phạm Tiến Duật).
  8. Những người lính trong bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu đã trải qua những năm tháng đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ, thiếu thốn nhưng họ đã sớm gần nhau, cùng sẻ chia những năm tháng khó khăn của cuộc đời người lính với một sợi dây tình cảm gắn kết vô hình. Đó chính là tình đồng chí, đồng đội, là sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân, về lí tưởng yêu nước và mục đích chiến đấu. Trước khi trở thành người lính cụ Hồ, họ chỉ là những người nông dân chân chất, mộc mạc sinh ra và lớn lên ở những miền quê nghèo khó “nước mặn đồng chua” hay “ đất cày lên sỏi đá”. Nét giống nhau ấy đã giúp tình cảm giữa họ trở nên gắn bó, yêu thương, sẻ chia một cách chân thật, giản dị, tự nhiên trong những tháng ngày gian nan nhất nơi núi rừng Việt Bắc.Chính Hữu đã trải qua, đã cảm nhận sâu sắc tình cảm ấy và tái hiện, làm sống dậy bức tượng đài tình đồng chí trên nền hiện thực khắc nghiệt, lạnh lẽo của cuộc kháng chiến vệ quốc. “Rừng hoang sương muối” trở thành nhà, thành một phần không thể thiếu trong cuộc đời của người lính. Dẫu có lạnh lẽo, hoang sơ, trăm bề thiếu thốn họ vẫn luôn giữ vững tinh thần, sẵn sàng cho cuộc chiến đấu. Nào là những chiếc áo “rách vai”, những chiếc quần có “vài mảnh vá”, “chân không giày” giữa “anh” và “tôi” vẫn hiện hữu một thứ tình cảm cao đẹp được kết tinh từ mọi xúc cảm cao độ của tình bạn: tình đồng chí. Chính sự hoang tàng nơi rừng thiêng với những cái rét cắt da cắt thịt giữa trời đêm và khó khăn trong đời sống thường ngày đã trở thành chất xúc tác làm nên chất lãng mạn hòa với tình người khiến tình cảm những người lính nông dân càng trở nên gần gũi, bền chặt. Họ cùng nhau tham gia kháng chiến, cùng nhau sẻ chia cảnh ngộ bản thân, sẻ chia những vui buồn, những gian khó, cùng sát cánh kề vai và trờ thành “tri kỉ”. Ấm áp nhất, đẹp đẽ nhất, mang tình người nhất của tình cảm người lính chính là những cái nắm tay chân thực “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Cái nắm tay là tình thương của những người tri kỉ xuất phát từ sự thấu hiểu cho cảnh ngộ của nhau. Quê hương các anh gắn bó với hình ảnh người thân, gian nhà, ruộng nương, gốc đa, giếng nước nhưng khi lí tưởng yêu nước trong tim đã sẵn sàng, họ cùng dứt khoát lên đường ra trận mang theo hình ảnh quê hương với bao niềm yêu nhớ. Cái nắm tay còn là những “niềm thương”và “niềm tin” trong những năm tháng họ cùng nhau trải qua gian nan, khó nhọc, hiểm nguy mà họ trao gửi cho nhau. Nắm tay để cùng nhau vượt qua cơn sốt rét rừng, cùng nhau lau vầng trán đẫm mồ hôi, để cùng nhau cười trong “buốt giá”, cùng truyền nhau hơi ấm tình người. Nhà thơ Chính Hữu đã hai lần nhắc đến từ “tay” trong câu thơ mang ý ẩn dụ sâu sắc, tạo hình ảnh sóng đôi, mang lại cảm giác hòa quện chân thành, nhẹ nhàng mà sâu lắng. Câu thơ dồn nén bao xúc cảm, là kết tinh của tình cảm cao đẹp, đáng trân quý nhất chính là tình bạn và tình người. Một tình cảm tự nhiên, chân chất, hồn hậu như chính bản chất người lính nông dân; một tình cảm yêu thương nặng sâu như chính hơi thở, như máu chảy trong trái tim nhiệt thành của họ. Phạm Tiến Duật cũng giống như Tố Hữu, ông tái hiện chân thực nhất vẻ đẹp người lính trong sáng tác của mình. Nhưng người lính trong thơ ông là những thanh niên, những sinh viên, trí thức, học sinh vừa dời mái trường. Ở họ có sự nhiệt tình, hăng hái, sôi nổi, hồn
  9. nhiên, tinh nghịch, ngang tàng của tuổi trẻ nhiều mộng mơ, hoài bão. Họ yêu nước, mang theo nhiều lí tưởng, họ gặp nhau nơi chiến trường trở thành những người lính lái xe, trở thành đồng đội. Sự gắn bó, tuổi trẻ khiến cách thể hiện tình cảm giữa họ trở nên thật trẻ trung, vô tư và ấn tượng. Sát cánh bên nhau, những người lính lái xe dọc trên con đường Trường Sơn nối lền mạch màu giao thông hai miền ung dung nhìn thẳng vào khó khăn, thử thách với bản lĩnh vững vàng, không hề run sợ. Mưa nắng, bụi bặm, đạn bom, xe hỏng hóc có là gì khi trong họ tâm thế luôn sẵn sàng. Không còn là khung cảnh rừng khuya tĩnh mịch dưới ánh trăng chiếu soi, không phải là những cái rét cắt da cắt thịt như ở nơi núi rừng Việt Bắc mà người lính chống Pháp trong thơ Chính Hữu đã vượt qua mà những người lính lái xe trên những con đường mòn khúc khuỷu giữa núi rừng Trường Sơn, giữa tiếng ồn ã của động cơ xe, tiếng trò chuyện cười nói vui vẻ, tếu táo lúc nghỉ chân và cả những tiếng lòng của người lính. Xe không có kính, “bụi phun tóc trắng như người già”, mặt lấm, mưa hắt vào cabin ướt áo nhưng họ không màng tới. Họ cùng nhau nghỉ chân, cùng châm điếu thuốc, cùng nhìn nhau rồi cất tiếng cười “ha ha” đầy hào sảng , xóa tan đi những nhọc nhằn, gian khổ trên con đường chông gai. Nhưng câu nói đầy dứt khoát“ừ thì” cùng từ thế “dọc đường đi tới” đầy hiên ngang đang trao gửi niềm tin hướng tới tương lai phía trước. Họ “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” đầy tinh nghịch, ngạo nghễ. Khung cửa kính đã vỡ bởi bom đạn quân thù, bởi những ngày tháng khốc liệt nơi chiến trường hiểm nguy, gió lùa qua khung kính vỡ khiến đôi mắt họ cay cay, mưa tuôn, mưa xối, bụi phun, mặt lấm nhưng họ vẫn gửi trao hơi ấm tình đồng đội qua những cái bắt tay thân tình. Những chiếc xe vẫn bon bon trên con đường gập ghềnh, khúc khuỷu dù không kính, không đèn, không mui xe, thùng xe xước Dường như đó lại là điều kiện thuận lợi để người lính trao gửi tình cảm cho nhau. Họ đi qua nhau, thật nhanh, thật tự nhiên họ bắt lấy bàn tay đồng đội; tuy vội vã mà chân thành, tinh nghịch, đủ để truyền cho nhau sức mạnh để cùng nhau vượt qua những tháng ngày gian khó. Đó là tình cảm sẻ chia, đồng cảm, là sự thấu hiểu và tin tưởng của những người đã luôn coi chiến trường là nhà, những bữa ăn vội cùng anh em đồng chí là bữa cơm gia đình, là tình thân. Đó là lời động viên, là lời chúc mừng thay câu nói, là cùng nhau lạc quan đi tiếp trên con đường chông gai. Họ sẽ vẫn luôn giữ vững niềm tin dù ở bất cứ hoàn cảnh nào và chính sự trẻ trung trong tâm hồn đã giúp họ dùng hơi ấm bàn tay làm cầu nối gắn kết tình cảm đồng chí, đồng đội. Cái bắt tay ấy còn thể hiện ý chí chiến đấu đến cùng trong trái tim mỗi người lính cho lí tưởng yêu nước: còn thấy nhau là còn tồn tại, còn tồn tại là còn chiến đấu. Vì thế, cái bắt tay giữa họ mang tới cảm giác rất riêng của chất lính cụ Hồ thời kháng chiến chống Mĩ: tinh nghịch, trẻ trung và rất tự nhiên, ngang tàng. Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã nâng hình ảnh “bắt tay qua cửa kính vỡ” thành biểu tượng của tình bạn, tình đồng chí, tình người trong thời khắc gian nguy nhất. “Đồng chí” và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được viết trong hai thời điểm lịch sử khác nhau nhưng bằng nét bút giản dị, chân thực, không hoa mĩ của cả hai nhà thơ, ta lại bắt gặp những nét chung rất thân tình thông qua cái nắm tay giản dị giữa những người lính. Đó đều là cách họ biểu lộ tình cảm thương yêu, san sẻ với những người cùng chung lí tưởng yêu nước. Lòng yêu nước, sự sẵn sàng sống, chiến đấu và hi sinh đã giúp cho tình đồng chí, đồng đội cùng những cái bắt tay càng trở nên có ý nghĩa hơn, lan tỏa niềm tin, sức mạnh, động lực giúp họ cùng nhau vượt qua nghịch cảnh. Chỉ bằng cái bắt tay, hơi ấm đồng chí, đồng đội được truyền trong những người lính chống Pháp đến
  10. những năm tháng khốc liệt chống Mĩ trên tuyến đường huyết mạch Trường Sơn, tất cả đều xuất phát từ trái tim nhiệt tình cách mạng của những người lính cụ Hồ. Chính trái tim người lính ở mọi thời đã làm cháy lên ngọn lửa của hy vọng, của sức mạnh, ý chí và nghị lực, niềm tin; giúp họ tạc nên bức tượng đài nghệ thuật muôn đời. Ở họ tỏa ra ánh sáng lý tưởng cao đẹp và thiêng liêng. Các anh truyền tải điều đó qua những cái bắt tay ấm tình đồng đội đã tạo nên sức mạnh và trở thành một trong những “vũ khí” quyết định chiến thắng của quân ta. Hai tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật không chỉ dừng lại ở việc khắc họa hình ảnh người lính trong những giai đoạn cam go nhất của cuộc chiến mà còn cho ta thấy được tình cảm đồng chí, đồng đội gắn bó, keo sơn, sự thấu hiểu, động viên nhau qua những cái bắt tay ấm áp tình người. Thành công của Chính Hữu và Phạm Tiến Duật đến từ cách viết chân thực, giản dị, phác họa vẻ đẹp tinh thần bên trong tâm hồn người lính đã giúp hai bài thơ đi vào lịch sử một cách hào hùng nhưng không kém phần thơ mộng. Giáo viên: Nguyễn Thị Thúy Email: thithuy1982@gmail.com. Bài làm của học sinh: Trần Thị Kim Tuyến. Lớp 9/1 trường THCS Phan Thúc Duyện. Đề bài: Cảm nhận của em về đoạn kết trong bài thơ “Đồng chí”của Chính Hữu. Bài làm: Nếu hương thơm và sắc màu là điều quý giá nhất của một loài hoa, nếu tiếng ca và đôi cánh là điều tuyệt diệu nhất của một loài chim, nếu thành quả là điều khiến con người ta tự hào nhất của một quá trình nỗ lực thì có lẽ điều quý giá, tuyệt vời và đáng tự hào nhất của dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường chính là lịch sử đấu tranh hào hùng và cao cả! Lịch sử ấy được viết nên bởi toàn dân mà đặc biệt là những những lính đêm ngày chiến đấu không ngại mỏi mệt, gian khổ. Ta cảm động bởi sự chia sẻ thân thương cùng nhau vượt qua mọi khó khăn để khắc lên tình đồng đội của những người lính ấy. Điều đó được những nhà thơ khắc họa trong những trang thơ thật sâu sắc mà cũng thật bình dị. Và nhà thơ Chính Hữu với vốn sống phong phú và sự cảm nhận tinh tế đã thể hiện sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí trong khổ cuối bài thơ “Đồng chí” viết vào năm 1948: Đêm nay rừng hoang sương muối.
  11. Nằm cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo. Bài thơ “Đồng Chí” được nhà thơ Chính Hữu viết sau khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bởi vậy bài thơ là những gì chân thực nhất xuất phát từ sự trải nghiệm của chính nhà thơ kết hợp với sự sáng tạo của mình, Chính Hữu đã để lại những vần thơ với những ấn tượng sâu sắc khó phai trong lòng người đọc. Những người lính trong “Đồng chí” là những con người có cùng xuất thân là người nông dân, có cùng lí tưởng, niềm tin và tình yêu nước mãnh liệt; họ có cùng những câu chuyện mang nỗi niềm tâm sự “ruộng nương anh gởi bạn thân cày”, “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính”; có cùng những sự khó khăn “áo anh rách vai”, “quần tôi có vài mảnh vá” và họ đã nắm tay thương lấy nhau, cùng nhau chia sẻ, đồng cảm để vượt qua bao khó khăn, thiếu thốn của cuộc chiến tranh. Đó là nguồn động lực lớn lao tiếp sức mạnh cho người lính trong những đêm gác giá lạnh: Đêm nay rừng hoang sương muối. Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đêm nay vẫn như đêm qua và nhiều đêm khác, các anh vẫn chăm chỉ, miệt mài, vẫn dũng cảm, kiên trì đứng canh gác. Các anh không chỉ đứng canh gác trong đêm giữa chốn núi rừng trống vắng mà đêm ấy còn là một đêm sương muối, trời giá rét và lạnh lẽo vô cùng. Thế nhưng động từ “đứng cạnh”, chính nhờ “đứng cạnh bên nhau” để truyền hơi ấm cho nhau mà những người lính ấy không còn cảm thấy lạnh lẽo, không còn cảm thấy cô đơn, trống vắng mặc dù nơi học đứng là “rừng hoang”, mặc dù họ đang phải hứng chịu “sương muối”. Tất cả khó khăn, gian khổ dường như mờ nhạt trước ngọn lửa tình đồng chí ấm áp, nồng nàn mà cao đẹp, thân thương. Đó quả là một sức mạnh kì diệu, lớn lao mà sự sẻ chia giản dị của những người lính mang lại, chỉ cần “đứng cạnh bên nhau” thôi là họ có đủ sức mạnh, có đủ hơi ấm để đứng vững, để mạnh mẽ làm nhiệm vụ. Hơn thế nữa, họ còn làm nhiệm vụ với tư thế chủ động mặc dù họ đang trong tình thế bị động. Những người lính canh gác này không biết có bao nhiêu hiểm nguy đang rình rập họ, không biết rằng ít lâu nữa họ phải chiến đấu với những chiếc máy bay, những quả bom được mệnh danh là tử thần. Ấy vậy mà họ lại “chờ”, động từ “chờ”mang nghĩa chủ động, thể hiện tư thế chủ động, sẵn sàng chiến đấu với địch bất cứ lúc nào. Phải chăng đó là sự lạc quan, tinh tưởng vào đồng đội, vào bản thân với một sự kiên cường, dũng cảm của người lính và đó cũng là một nguồn động lực giúp họ trở nên mạnh mẽ chiến đấu hơn bao giờ hết, tầm vóc của họ bỗng trở nên lớn lao giữa chốn núi rừng vắng vẻ hơn bao giờ hết? Họ không chỉ là những người lính chiến đấu mạnh mẽ, những người lính ấy không chỉ khô khan “chờ giặc tới” mà họ còn vô cùng lãng mạn dưới ánh sáng vàng của vầng trăng. Nếu trong các chùm thơ về trăng của Hồ Chí Minh “trăng nhòm khe cửa ngắm nhà
  12. thơ” (Ngắm trăng), “trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa”(Cảnh khuya) trăng là người bạn thiên nhiên gần gũi, trong sáng, là người bạn tri âm tri kỉ tâm sự, chia sẻ; nếu trăng trong “Ánh trăng” của Nguyễn Duy mang một hình tượng mới, là nhân chứng sống về sự lỗi lầm của người lính “ánh trăng im phăng phắc, đủ cho ta giật mình”thì trăng trong “Đồng chí” của Chính Hữu là sự kết hợp tinh tế giữa vầng trăng thiên nhiên và “đầu súng”, vừa gần gũi vừa mới lạ: Đầu súng trăng treo Đó là một hình ảnh vô cùng quen thuộc đối với những người lính. Bốn chữ “đầu súng trăng treo” làm nhịp thơ đột ngột thay đổi, dồn nén, chắc gọn, gây sự chú ý cho người đọc. Trong đêm phục kích, khi súng dắt lên vai và đầu súng chĩa lên trời vô tình chạm vầng trăng mà nhà thơ cứ ngỡ “trăng” treo “đầu súng”. Động từ “treo” đã tạo nên một mối quan hệ bất ngờ độc đáo, nối liền mặt đất với bầu trời, gợi những liên tưởng thú vị vừa hiện thực lại vừa lãng mạn. Trong đêm giá rét, rừng hoang sương muối, cái chết cận kề, tâm hồn nhạy cảm của người chiến sĩ vẫn tìm thấy chất thơ bay bổng trong vẻ đẹp của trăng.” Đầu súng” ở gần biểu tượng cho chiến tranh, hiện thực khốc liệt, “ trăng” ở xa biểu tượng cho sự lãng mạng, màu vàng của trăng biểu tượng cho hòa bình, cuộc sống no đủ, hạnh phúc. Chính Hữu đã kết hợp giữa hiện thực và lãng mạn, chiến tranh và hòa bình, chất chiến sĩ hòa quyện chất thi sĩ tạo nên một bức tranh đẹp và vô cùng sáng tạo! Tất cả như bộc lộ và tô đậm vẻ đẹp con người của những người lính vừa lãng mạn mà cũng vừa bất khuất, đanh thép, kiên cường. Tất cả như hứa hẹn một ngày toàn thắng không xa, ngày để những người lính chiến đấu mạnh mẽ hướng tới tự do. Điều đó ẩn chứa một khát vọng lớn lao của những người lính về ngày hòa bình, độc lập. Với giọng thơ nhẹ nhàng, tâm tình kết hợp biện pháp tu từ ẩn dụ và sự sáng tạo độc đáo, Chính Hữu đã vẽ nên một bức tranh vô cùng đẹp và phá cách khắc họa sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí. Phải là một con người có sự trải nghiệm, tài sáng tạo và sự cảm nhận sâu sắc, tinh tế thì Chính Hữu mới có thể tạo nên một hình ảnh mới lạ, độc đáo và để lại ấn tượng trong lòng người đọc về trăng và người lính như vậy. Quả là một dấu ấn mới đẹp đẽ về thơ ca cách mạng, về nguồn cảm hứng bất tận của mỗi thời đại là “trăng” vốn được ví nếu vật chất là điều dễ mất đi thì “trăng” luôn bất tử trong lòng người đọc với những giá trị về cảm hứng giàu có của nó. Từ đây ta càng thêm yêu, càng thêm tự hào và muốn ca ngợi người lính trong cuộc vệ quốc vĩ đại. Đặc biệt giá trị mà “Đồng chí” mang lại còn là nguồn cảm hứng sâu sắc đối với ý thức của tuổi trẻ về lòng tự hào dân tộc, học tập những truyền thống tốt đẹp của cha anh để từ đó cố gắng phát triển và xây dựng quê hương thêm giàu đẹp. Nhà thơ Chính Hữu đã vô cùng thành công trong việc bộc lộ sức mạnh và vẻ đẹp của tình đồng chí trong đoạn cuối bài thơ “Đồng chí”. Hãy để tâm hồn ta rong chơi, chìm đắm, hòa quyện trong hình ảnh những người lính gác đêm giữa rừng hoang để cảm nhận sâu sắc hơn vẻ đẹp của người lính thời cứu nước. Hãy để tâm hồn ta được mở rộng và chiêm ngưỡng nhiều hơn nữa những hình ảnh đẹp về người lính, về tình đồng đội
  13. bằng cách tìm và đọc thêm nhiều tác phẩm. Và cuối cùng hãy là những con người có ích đóng góp một phần công sức của mình để giữ gìn và phát triển quê hương, đất nước mà các anh hùng đã gìn giữ thêm giàu đẹp! Đề bài: Nhận xét về của nhân vật Vũ Nương trong “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ có ý kiến cho rằng: “Vũ Nương không chỉ là hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của số phận bị kịch”Bằng hiểu biết của em về văn bản “Chuyện người con gái Nam Xương”, hãy làm sáng tỏ ý kiến trên. Giáo viên: Trần Trọng HátGmail: tranhat76hd@gmail.com Bài làm: Nguyễn Dữ là gương mặt nổi bật của văn học Việt Nam thế kỉ XVI. Ônglà một người học rộng, cao khiết và đặc biệt qua tâm tới tầng lớp trí thức và người phụ nữ có nhân cách và phẩm hạnh. Nhân vật Vũ Nương - nhân vật chính của truyện “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong số những những phụ nữ được nhà văn dành nhiều tâm huyết xây dựng với hình tượng tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam truyền thống có đủ tứ đức: Công - dung - ngôn - hạnh nhưng lại có cuộc đời bi thảm. Đúng như nhận định: “Vũ Nương không chỉ hiện thân của vẻ đẹp mà còn là hiện thân của số phận bi kịch.” Với tập truyện “Truyền kì mạn lục”, Nguyễn Dữ thực sự đã mang đến cho nền văn học dân tộc một “Thiên cổ kì bút” có khả năng lay động lòng người bởi giá trị mọi mặt của nó. “Chuyện người con gái Nam Xương” là thiên thứ 16 và là thiên tiêu biểu trong tập truyện này. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, truyện thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến, đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ. Tác phẩm là một áng văn hay, thành công về nghệ thuật dựng truyên, miêu tả nhân vật, kết hợp tự sự với trữ tình. Trước hết, Vũ Nương là hiện thân của vẻ đẹp. Sau khi giới thiệu vẻ đẹp ngoại hình của nàng, tác giả đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật.Vũ Nương được miêu tả đẹp ở ngoại hình. Mở đầu truyện, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung phụ nữ hoàn hảo, vẹn toàn. Trương Sinh vì cảm mến dung hạnh ấy mà xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Để khắc họa nhân vật Vũ Nương với vẻ đẹp phẩm chất đáng quý, nhà văn đã đặt nhân vật vào những mối quan hệ, trong các tình huống khác nhau. Ở bất cứ tình huống
  14. và mối quan hệ nào, Vũ Nương cũng sáng lên vẻ đẹp của một người phụ nữ Việt Nam tuyền thống: đảm đang và giàu tình yêu thương. Với chồng, Vũ Nương là người vợ nết na, phụ nữ thuỷ chung. Khi mới lấy chồng: Biết chồng có tính đa nghi nên Vũ Nương cư xử đunga mực, giữ gìn khuôn phép, vợ chồng chưa từng xảy ra bất hòa. Nàng luôn giữ cho tình cảm gia đình đầm ấm, yên vui. Nàng là một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực! Khi tiễn chồng ra trận: Hạnh phúc êm ấm tưởng bền lâu, không ngờ đất nước xảy ra binh biến, Trương Sinh phải đầu quân ra trận ở biên ải xa xôi. Buổi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, ngọt ngào, nồng đượm, đằm thắm, thiết tha: “ Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo đượchai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Đó là một lời dặn dò thật chân thành với ước muốn rất đỗi bình thường của một người vợ, người phụ nữ khao khát cuộc sống gia đình bình yên hạnh phúc. Ước mong cùng với lời lẽ dịu dàng ấy, chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm. Tình thương chồng của nàng còn được thể hiện qua nỗi thấu hiểu những khó khăn nơi chiến trận. Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì,khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ già lo lắng.”. Cùng với nỗi thấu hiểu của nàng là nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâmtình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”. Đúng là lời nói, cách nói của một người vợ hết mực thùy mị, dịu dàng. Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao! Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầyvườn,mây che kín núi,thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay: " Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong " (Chinh phụ ngâm) Để thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. Khi chồng trở về những tưởng nàng sẽ được sống hạnh phúc thì thật chớ trêu, nàng bị chồng nghi oan, hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ. Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng nói đến thân phận mình, đến tình nghĩa vợ chồng và khẳng định tấm lòng thuỷ chung,
  15. son sắt của mình để thuyết phục chồng “Thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu.sum họp chưa thoả tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết ” Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương. Đến khi được sống dưới thủy cung, Vũ Nương vẫn không nguôi nhớ cuộc sống nơi trần thế - cuộc sống nghiệt ngã đã đẩy nàng tới cái chết. Nàng vẫn là người vợ yêu chồng, người mẹ thương con, vẫn nặng lòng nỗi nhớ nhung quê hương, mộ phần cha mẹ. Đồng thời nàng vẫn khao khát được trả lại danh dự. Với mẹ chồng Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo. Chồng vừa ra trận được một tuần thì nàng ở nhà sinh con trai. Trong những ngày tháng xa chồng, nàng đảm đang lo toan mọi công việc trong gia đình vừa chăm sóc phụng dưỡng mẹ chồng, lại nuôi dạy con thơ. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo khuyên lơn mong vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng như với cha mẹ đẻ của mình. Lời trăng trối của người mẹ già ấy đã đánh giá được công lao của nàng đối với gia đình: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ". Với con, Vũ Nương là một người mẹ hiền yêu thương con hết mực. Nàng chăm sóc, bù đắp cho đứa con trai nhỏ thiếu vắng tình cha. Nàng vừa đảm đương vai trò của mẹ lại vừa đảm dương vai trò người cha đối với con. Đặc biệt, chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản với mục đích để con trai bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha. Bên cạnh đó, Vũ Nương còn là một người trọng nhân phẩm và tình nghĩa. Khi không phân giải được, nàng chọn cái chết để tự minh oan. Với nàng, nhân phẩm còn quan trọng hơn mạng sống. Sau khi trở về thủy cung vẫn khao khát được trả lại danh dự nên nàng đã nhờ Phan Lang nói vớí Trương Sinh lập đàn giải oan. Nàng sống trọng tình nghĩa, ở dưới Thủy cung, vẫn thương nhớ quê hương, gia đình: Ngựa Hồ gầm giá Bắc, chim Việt đậu cành Nam. Vì cảm ân đức của Linh Phi nên quyết ở lại Thủy cung, không trở về trần gian. Vũ Nương không chỉ là một người trọng nhân phẩm và tình nghĩa mà nàng còn là là một người phụ nữ giàu lòng vị tha. Khi bị vu oan, không nói một lời trách móc chồng. Khi sống dưới thủy cung, nàng sẵn sàng tha thứ cho chồng nên nàng mới nhắn Trương Sinh lập đàn giải oan. Việc lập đàn giải oan cho vợ sẽ phần nào giúp Trương Sinh vơi đi nỗi ân hận, day dứt. Khi được chồng lập đàn giải oan ở bến Hoàng Giang, nàng hiện về cất lời cảm tạ chồng có nghĩa là nàng đã hoàn toàn tha thứ cho chồng
  16. Nhà văn Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp. Vũ Nương trở thành hiện thân cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam thời phong kiến. Lẽ ra, với một người phụ nữ đẹp người đẹp nết như Vũ Nương thì nàng sẽ được hưởng một cuộc sống hạnh phúc bên gia đình. Nhưng trong truyện nhà văn lại để cho nhân vật của mình là hiện thân của số phận bi kịch. Cuộc hôn nhân gặp nhiều trắc trở: hôn nhân ko môn đănh hộ đối, không bình đẳng và là cuộc hôn nhân sắp đặt, không có tình yêu. Trương Sinh ít học lại có tính đa nghi, hay ghen tuông vô cớ nên nàng luôn phải giữ gìn khuôn phép, lựa chồng để ko xảy ra bất hòa. Hạnh phúc chưa được bao lâu, đất nước xảy ra binh biến, nàng phải chịu cảnh xa chồng, bụng mang dạ chửa, thay chồng gánh vác, lo toan mọi việc trong gia đình. Đỉnh cao của bi kịch là ngày xum họp gia đình lại là ngày chia ly: mặc dù là người phụ nữ rất mực đoan chính lại bị chính chồng mình khép vào tội không chung thủy, thất tiết khi chồng vắng nhà. Bị chồng ruồng rẫy, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng phải kết thúc cuộc đời bằng một cái chết thể thảm. Bi kịch lớn nhất với Vũ Nương là không có quyền hành: không có quyền minh oan, không có quyền được bảo vệ nhân phẩm, không có quyền được sống bởi lẽ xã hội phong kiến bất công, trọng nam khinh nữ đã tước đi của người phụ nữ những điều đó. Nguyên nhân trực tiếp đẩy Vũ Nương đến cái chết thê thảm như vậy là bởi vì lời nói ngây thơ của bé Đản: Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư? Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước đây chỉ nín thin thít. Nguyên nhân gián tiếp phải kể đến là do cuộc hôn nhân bất bình đẳng dẫn đến thái độ rẻ rúng của Trương Sinh đối với Vũ Nương. Cái thua thiệt đầu tiên làm nên bất hạnh của Vũ Nương là thua thiệt về vị thế. Vũ Nương “vốn con kẻ khó” còn Trương Sinh lại là “nhà giàu” đến độ khi muốn Sinh có thể xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương về. Sự cách biệt giàu nghèo ấy khiến Vũ Nương sinh mặc cảm và cũng là cái thế khiến Trương Sinh có thể đối xử thô bạo, gia trưởng với nàng. Lí do tiếp theo phải kể đến là do bản tính hồ đồ ghen tuông lại hẹp hòi, tàn nhẫn của người chồng đa nghi, vũ phu. Người chồng không đủ tỉnh táo để phân tích đúng sai mà cố vin theo lời nói ngây thơ, vô tình của con để hăt hủi, ruồng rẫy vợ cho hả dạ. Và lý do quan trọng chính là Vũ Nương là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa. Nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm không chỉ là nạn nhân của chế độ phụ quyền phong kiến mà còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến, của cuộc nội chiến huynh đệ tương tàn. Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống hạnh phúc,cuộc sống vợ chồng kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính. Vũ Nương suốt ba năm ròng phải gánh vác trọng trách gia đình, phụng dưỡng mẹ già, chăm sóc con thơ, phải sống trong nỗi nhớ chồng, thiếu vắng tình yêu thương của chồng. Và cũng chính chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm trở thành nguyên nhân gây bất hạnh. Hoàn cảnh gia đình li tán, xa cách đã khiến cho thử thách niềm tin vốn đã mong manh của Trương Sinh đối với người vợ ngoan hiền của mình. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.
  17. Nàng là nạn nhân của xã hội phong kiến - chế độ nam quyền - xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và tự do. Chính xã hội ấy đã dung túng cho thói gia trưởng của đàn ông, phá tan hạnh phúc của người phụ nữ. Nhà văn đã bày tỏ tấm lòng cảm thông, thương xót cho số phận bi kịch của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Ca ngợi nhân phẩm, đức hạnh của họ, nêu cao ước mơ, khát vọng công bằng, công lý, khát vọng hạnh phúc chân chính, bình dị. Phê phán xã hội nam quyền bất công. Như vậy, nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm đúng là hình ảnh điển hình cho vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam cũng là hiện thân của số phận khổ đau bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Tác giả Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật của mìnv một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp Gv: Nguyễn Lý Tưởng Đơn vị: THCS Hải Thanh Tĩnh Gia –Thanh Hóa Gmail: nguyenlytuong1981@gmail.com Đề bài : Cảm nhận của em về bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh Bài làm Có những bài thơ khi đi qua đời ta, giản dị và mong manh, với những nhịp đập rất mực mảnh mai êm ái của trái tim, những rung động mơ hồ của cảm xúc nhưng đã để lại trong ta một nốt nhấn cứ ngân nga, ngân nga mãi Những nốt nhấn cảm xúc ấy đeo đẳng, ám ảnh suốt một đời, làm ta xúc động và trăn trở. Phải chăng đó là những câu thơ hay, những câu thơ đã đạt được những phẩm chất đích thực và phải chăng đó cũng chính là những day dứt băn khoăn của người nghệ sĩ suốt một đời sống chết với thơ. Đến với bài thơ Sang thu của Hữu Thỉnh bạn đọc sẽ có được những cảm xúc ấy. Dẫu biết rằng thời gian bốn mùa luôn luân chuyển hết xuân đến hạ, thu sang rồi đông tới, thế nhưng ta vẫn cảm thấy ngỡ ngàng khi quên đi nhịp sống sôi động hàng ngày mà lắng nghe tiếng mùa thu đi để cảm nhận thời khắc đặc biệt bước chuyển mùa
  18. của thiên nhiên. Sang thu của Hữu Thỉnh giúp ta chiêm ngưỡng lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu nay ta hững hờ. Đó là lúc hồn ta run lên những cảm nhận dung dị. "Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về". Chỉ với bốn câu thơ ngắn mở đầu, Hữu Thỉnh đã đem đến cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về thiên nhiên. Những tín hiệu của mùa thu với những nét phác họa tài hoa: hương ổi, gió se, sương chùng chình giản dị mà hiện lên đầy gợi cảm. Nếu như trong thơ ca cổ điển mùa thu thường hiện ra quacác hình ảnh ước lệ như “ngô đồng”, “rặng liễu”, “lá vàng mơ phai”, “hoa cúc” thì với Hữu Thỉnh ông lại bắt đầu bằng “hương ổi”. Đó là một hỉnh ảnh, một tứ thơ khá mới mẻ với thơ ca viết về mùa thu nhưng lại vô cùng quen thuộc và gần gũi nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ : "Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se" Từ “bỗng” được gieo lên trong niềm ngỡ ngàng, ngạc nhiên, một trạng thái chưa hề chuẩn bị, như là vô tình, như là sửng sốt Một tiếng kêu vang thích thú. Từ bao giờ thu về? Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước.Để rồi trong giây phút ngỡ ngàng ấy, nhà thơ mới chợt nhận ra hương ổi. Vì sao lại là hương ổi mà không phải là các hương vị khác? Người ta có thể đưa vào bài thơ về mùa thu các hương vị ngọt ngào của ngô đồng, cốm xanh, hoa ngâu, nhưng Hữu Thỉnh thì không. Giữa tiết trời cuối hạ đầu thu, ông nhận ra hương vị chua chua, ngòn ngọt của những quả ổi chín vàng ươm. Hương ổi, thứ hương thơm quê mùa, dân dã. Hương ổi không nồng nàn. Đó là thứ hương dìu dịu, nhè nhẹ. Hương vị ấy đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương, mùi hương riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Mùi vị ấy gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ. Chính Hữu Thỉnh đã tâm sự rằng: “Giữa trởi đất mênh mang, giữa cái khoảnh khắc giao mùa kì lạ thì điều khiến cho tâm hồn tôi phải lay động, phải giật mình để nhận ra đó chính là hương ổi. Với tôi, thậm chí là với nhiều người khác không làm thơ thì mùi hương đó gợi nhớ đến tuổi ấu thơ, gợi nhớ đến buổi chiều vàng với một dòng sông thanh bình, một con đò lững lờ trôi,
  19. những đàn trâu bò no cỏ giỡn đùa nhau và những đứa trẻ ẩn hiện trong triền ổi chín ven sông Nó giống như mùi bờ bãi, mùa con trẻ Hương ổi tự nó xốc thẳng vào những miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta. Mùi hương đơn sơ ấy lại trở thành quý giá vì nó đã trở thành chiếc chìa khóa vàng mở thẳng vào tâm hồn mỗi người, có khi là cả một thế hệ ”.Thế mà ít ai nhận ra sự hấp dẫn của nó. Bằng cảm nhận tinh tế, bằng khứu giác, thị giác, nhà thơ đã chợt nhận ra dấu hiệu của thiên nhiên khi mùa thu lại về. Chúng ta thật sự rung động trước cái “bỗng nhận ra” ấy của tác giả. Chắc hẳn nhà thơ phải gắn bó với thiên nhiên, với quê hương lắm nên mới có được sự cảm nhận tinh tế và nhạy cảm như thế! Dấu hiệu của sự chuyển mùa còn được thể hiện qua ngọn gió se mang theo hương ổi chín.Gió se là một làn gió nhẹ, mang chút hơi lạnh, còn được gọi là gió heo may. Ngọn gió se se lạnh, se se thổi, thổi vào cảnh vật. thổi vào lòng người một cảm giác mơn man, xao xuyến. Từ “phả” được dùng trong câu thơ mới độc đáo làm sao! "Phả" nghĩa là bốc mạnh và tỏa ra thành luồng (Từ điển Tiếng Việt - Hoàng Phê). Hữu Thỉnh đã không tả mà chỉ gợi, đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: tại vườn tược quê nhà, những quả ổi chín vàng trên các cành cây kẽ lá tỏa ra hương thơm nức, thoang thoảng trong gió. Chỉ một chữ “phả” thôi cũng đủ gợi hương thơm như sánh lại. Sánh lại bởi hương đậm một phần, sánh bởi tại gió se. Nhận ra trong gió có hương ổi là cảm nhận tinh tế củamột người sống giữa đồng quê và nhà thơ đã đem đến cho ta một tín hiệu mùa thu dân dã mà thi vị, một nét đẹp đáng yêu của mùa thu vàng nông thôn vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nhiều người đã biết: Thạch Lam, Vũ Bằng, Nguyễn Tuân, Băng Sơn, Nguyễn Đình Thi, đã viết thật hay về hương cốm Vòng (Hà Nội), một nét đẹp mến yêu về hương vị mùa thu của quê hương đất nước: “Sáng mát trong như sáng năm xưa Gió thổi mùa thu hương cốm mới ” ("Đất nước" - Nguyễn Đinh Thi) ”Hương ổi’’ được hữu hình trong bài '‘Sang thu” là một cái mới trong thơ, đậm đà màu sắc dân dã của Hữu Thỉnh. Sau “hương ổi" và “gió se”, nhà thơ nói đến sương thu. Cũng không phải là “Sương thu lạnh Khói thu xây thành” trong “Cảm thu tiễn thu” của Tản Đà. Cũng chẳng phải là giọt sương lạnh và tiếng thu buồn những ngày xa xưa: “Cành cây sương đượm, tiếng trùng mưa phun ” (Chinh phụ ngâm).Không phải là màn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban mai “Mịt mù khói tỏa ngàn
  20. sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây Tiến”: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” . Mà là sương thu chứa đầy tâm trạng “chùng chình” cố ý làm chậm chạp để kéo dài thời gian: “Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về.” Từ láy gợi hình của nghệ thuật nhân hoá,“chùng chình” như vừa tả sự khoan thai, chậm rãi của màn sương, lại vừa như tả những bước chân nhẹ nhàng của nàng Thu đang rón rén bước vào không gian. Hay sự “chùng chình” ấy cũng chính là cảm giác bâng khuâng, lưu luyến của nhà thơ khi thu tới. Ngay cả cái ngõ mà sương đang ngập ngừng đi qua ấy cũng là một ẩn dụ rất thơ, rất tinh tế. Nó vừa là cái ngõ quê trong thực tại, lại vừa là cửa ngõ thời gian thông giữa hai mùa. Ở đó có hương trong gió, có gió trong sương, những dấu hiệu đặc trưng của mùa thu đều hiện diện. Thế nhưng, dù đã cảm nhận được mùa thu qua ba giác quan khứu giác (“hương ổi”), xúc giác (“gió se”), cả thị giác (“sương chùng chình”), tác giả vẫn chưa hết sững sờ, vẫn chưa dám tin là thu đã về nên thầm hỏi lại mình trong câu thơ cuối. Sự bâng khuâng, mơ hồ ấy được lột tả qua hai chữ “hình như”, càng tạo thêm vẻ khói sương lãng đãng lúc thu sang. Bằng những cảm nhận tinh tế và sự điêu luyện trong ngôn từ, Hữu Thỉnh đã gợi lên cảm xúc lưu luyến, bâng khuâng trong lòng người khi nhận ra thu về: “Hình như thu đã về”. Sao lại là “Hình như” chứ không phải là “chắc chắn”? Một chút nghi hoặc, một chút bâng khuâng không thật rõ ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ quá. Hóa ra bức tranh kia không phải cảm nhận bằng giác quan mà bằng cả tâm hồn nữa. Đó là tâm hồn nhạy cảm của một tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống Cả đoạn thơ không chỉ đặc sắc ở tả cảnh mà còn là sự rung rinh cảm nhận trước một cái gì đó mơ hồ, như có, như không. Ta như cảm thấy một hồn quê, một tình quê đi về trong câu chữ làm lòng ta ấm áp. Hình ảnh quê hương như càng thêm gần gũi, yêu mến. Mùa thu lặng lẽ và nhẹ nhàng. Những hình ảnh thơ cứ vương vấn mãi trong hồn. có một cái gì thật êm, dịu dàng toát lên từ đoạn thơ ấy. Quả thực ta thấy lòng thanh thản vô cùng mà lại vô cùng nôn nao nhớ đến những miền quê xa vắng trong nắng thu khi đọc mấy câu thơ của Hữu Thỉnh. Sau giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái nhìn xa hơn, rộng hơn:
  21. Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu Bằng phép nhân hóa đặc sắc, nhà thơ đã rất tài hoa ghi lại linh hồn của cảnh vật, của dòng sông quê hương nơi vùng đồng bằng Bắc Bộ ăm ắp nước phù sa, vươn mình giữa ruộng đồng vào những ngày giao mùa. Vào mùa thu, nước sông êm đềm, nhẹ nhàng, trôi lững lờ, khoan thai chứ không chảy xiết, cuồn cuộn, dữ dội, gấp gáp như những ngày mưa lũ mùa hạ. Cái “dềnh dàng” của dòng sông kết hợp với từ “được lúc” đệm vào như gợi lên sự tranh thủ nghỉ ngơi của sông vào mùa thu. Từ ngữ ấy không chỉ gợi ra một dòng sông với vẻ đẹp êm đềm, mềm mại, thiết tha của bức tranh thiên nhiên mùa thu mà còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về những trải nghiệm trong cuộc đời. Phải chăng dòng sông ấy cũng chính là dòng sông từng đi vào những vần thơ tuyệt cú của Bà Huyện Thanh Quan : “ Xanh om cổ thụ tròn xoe tán Trắng xóa Tràng giang phẳng lặng tờ” (Tức cảnh chiều thu) Tương phản với sông là sự vội vã của chim“ Chim bắt đầu vội vã”. Thu sang, khí trời se se lạnh, trên bầu trời trong xanh, cao rộng, những cánh chim vội vã bay đi về phương Nam tìm nơi trú ngụ nhưng mới chỉ là “bắt đầu” mà thôi. Chỉ một từ “ bắt đầu” thôi, Hữu Thỉnh đã thể hiện sự cảm nhận tinh tế, sâu sắc trước sự biến chuyển của thiên nhiên. Điều này càng cho thấy thời gian thu mới chớm, mới sang. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động. Cánh chim trong “Tràng giang” của Huy Cận cô đơn, mong manh như đang sa xuống mặt đất cùng ráng chiều “Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”. Còn trong “Sang thu” của Hữu Thỉnh, bầu trời cũng như nhỏ lại, ấm áp hơn theo nhịp vận động “vội vàng” của cánh chim. Hai câu thơ đối nhau rất nhịp nhàng, dựng lên hai hình ảnh đối lập, ngược chiều nhau: sông dưới mặt đất, chim trên bầu trời, sông “dềnh dàng” chậm rãi, chim “vội vã” lo lắng. Đó là sự khác biệt của vạn vật trên cao và dưới thấp trong khoảnh khắc giao mùa.
  22. Tuy nhiên, tả mùa thu, nhà thơ không tả sắc xanh biếc của da trời mà chỉ chú ý đến một chút mây còn vương vấn không khí mùa hè: “ Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu” Chỉ một áng mây bâng khuâng mà có thể thấy được cả cả bầu trời đang nhuộm sắc thu. Lối diễn đạt thật là độc đáo, giàu hình tượng. Chỉ một từ “vắt” thôi, ta có cảm giác như bầu trời được chia đôi với hai khoảng không gian của hai mùa Thu – Hạ. Và, trong đám mây mùa hạ ấy dường như phảng phất chút hơi lạnh của gió thu đang đến. Những chi tiết thực và hư cứ hoà lẫn vào nhau tạo nên một chất thơ lãng mạn đến lạ lùng. Nhưng trong thực tế không hề có đám mây nào như thế vì mắt thường đâu dễ nhìn thấy được sự phân chia rạch ròi của đám mây mùa hạ và thu. Đó chỉ là một sự liêntưởng thú vị - một hình ảnh đầy chất thơ. Thời khắc giao mùa được sáng tạo từ một hồn thơ tinh tế, nhạy cảm, độc đáo không những mang đến cho người đọc không gian đất trời lúc sang thu mà còn đọng lại những nỗi bâng khuâng trước vẻ dịu dàng êm mát của mùa thu. Có lẽ đây là hai câu thơ hay nhất trong sự tìm tòi khám phá của Hữu Thỉnh trong khoảnh khắc giao mùa. Nó giống như một bức tranh thu vĩnh hằng tạc bằng ngôn ngữ. Nếu như ở khổ đầu tiên, cần có một cái ngõ thực để gợi lên ngõ thời gian thông giữa hai mùa thì ở khổ thứ hai, chỉ cần một áng mây lơ lửng cũng gợi ra được ranh giới rất nhẹ giữa hai mùa. Có cảm giác như đám mây là chiếc khăn voan đang được mùa hạ trao cho mùa thu, nó vẫn là của mùa hạ đấy, nhưng đã nhuốm sắc thu rồi. Phải rất nhạy cảm và tinh tế mới thấy được, mới sáng tạo được một hình ảnh thơ đẹp như thế ! Hữu Thỉnh đã tạo nên được những hình ảnh rất đẹp và giàu sức gợi cảm bằng cảm nhận tinh tế và sự sáng tạo của mình. Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được nhân hóa khiến cho bức tranh thu trở nên hữu tình, chứa chan thi vị. Cả ba hình ảnh trên là tín hiệu của mùa thu sang còn vương lại một chút gì của cuối hạ. Nhà thơ đã mở rộng tầm quan sát lên chiều cao (chim), chiều rộng (mây) và chiều dài(dòng sông). Phải chăng có sợi tơ duyên đồng cảm giữa con người với thiên nhiên đang vào thu. Qua cách cảm nhận ấy, ta thấy Hữu Thỉnh có một hồn thơ nhạy cảm, yêu thiên nhiên tha thiết, một trí tưởng tượng bay bổng. “Vẫn còn bao nhiêu nắng Đã vơi dần cơn mưa Sấm cũng bớt bất ngờ
  23. Trên hàng cây đứng tuổi” Nắng, mưa, sấm, vốn là hiện tượng của thiên nhiên vận hành theo quy luật riêng của nó. Hữu Thỉnh đã nhìn ra từ cái mưa nắng hàng ngày một sự hụt vơi – dấu hiệu của sự chuyển mùa từ hạ sang thu. Các từ ngữ: “vẫn còn”, “đã vơi dần”, “cũng bớt bất ngờ”gợi tả rất hay thời lượng và sự hiện hữu của sự vật, của thiên nhiên như nắng thu, mưa thu, tiếng sấm buổi đầu thu. Nắng vẫn còn vàng tươi nhưng nắng thu trong và dịu hơn cái nắng chói chang, gay gắt của mùa hạ. Mưa cũng vẫn còn nhưng đã vơi nhiều so với những cơn mưa bong bóng kéo dài của mùa hạ. “Vơi dần” không chỉ là ít mưa đi mà còn là mưa ít nước đi. Đây cũng là dấu hiệu của sự chuyển mùa. Hai chữ “bao nhiêu” thường hướng về một cái gì đong đếm được nhưng sắc nắng làm sao có thể cân đo? Cũng như “vơi”, dù biết vơi bớ tnhưng vơi bớt đến mức nào thì ai có khả năng xác định? Tất cả chỉ là ước lượng mà thôi, không có gì là chừng mực cố định cả. Cách nói mơ hồ của nghệ thuật khắc hẳn với khoa học ở chỗ này. Phải chú ý, phải để lòng mình bắt nhịp với thiên nhiênmới cảm nhận thấy điều đó. Bằng nghệ thuật ẩn dụ sâu sắc, Hữu Thỉnh đã kết thúc khổ thơ qua hai câu văn thấm đẫm triết lý đáng để ta phải suy ngẫm: “Sấm cũng bớt bất ngờ Trên hàng cây đứng tuổi” Nhìn cảnh vật sang thu buổi giao mùa, từ ngoại cảnh ấy mà nhà thơ suy ngẫm về cuộc đời. “Sấm" và “hàng cây đứng tuổi" là những ẩn dụ tạo nên tính hàm nghĩa của bài " Sang thu”. Nắng, mưa, sấm là những biến động của thiên nhiên, còn mang ý nghĩa tượng trưng cho những thay đổi, biến đổi, những khó khăn thử thách trong cuộc đời. “Sấm” là những vang động bất thường của ngoại cảnh, cuộc đời. “Hàng cây đứng tuổi” chỉ những con người đứng tuổi từng trải. Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của những tháng ngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn trước những chấn động của cuộc đời. Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.
  24. Hữu Thỉnh viết bài thơ '‘Sang thu'" vào đầu những năm 80 của thế kỉ trước. Lúc bấy giờ, đất nước ta tuy đã được độc lập và thống nhất nhưng đang đứng trước nhiều khó khăn, thử thách mới về kinh tế, về xã hội. Hai câu kết bài thơ mang hàm nghĩa khẳng định bản lĩnh cứng cỏi và tốt đẹp của nhân dân ta trong những năm tháng gian khổ, khó khăn ấy. Nghệ thuật nhân hóa và ẩn dụ, cách chọn lọc từ ngữ khá tinh tế là những thành công của Hữu Thỉnh để lại dấu ấn đẹp và sâu sắc trong “Sang thu”. Thơ ngũ ngôn trong "Sang thu” thể hiện một cách cảm, cách nghĩ, cách diễn đạt mới mẻ, hàm súc, lắng đọng và hồn nhiên. "Sang thu" thể hiện một bút pháp nghệ thuật thanh, nhẹ, tài hoa, diễn tả những cảm nhận, những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trước vẻ đẹp và sự biến đổi kì diệu của thiên nhiên trong buổi chớm thu. Đối tượng được cảm nhận là cảnh sắc mùa thu nơi đừng quê trên miền Bắc đất nước ta. Bài thơ là một tiếng lòng trang trải, gửi gắm bao tình yêu mùa thu của quê hương đất nước; một tiếng thu nồng hậu, thiết tha. Mác-xen Prút-xơ đã từng nói : “Thế giới được tạo lập không phải một lần, mà mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện thì lại một lần thế giới được tạo lập.” Cũng chỉ là mùa thu thôi mà mỗi nhà thơ có một cách thể hiện thật khác biệt. Hữu Thỉnh cũng vậy, ông không chỉ cảm nhận được mùa thu đến trong từng hơi thở của đất trời mà còn truyền tải những cảm xúc bâng khuâng, xao xuyến khó tả của mình đến với người đọc bằng những hình ảnh rất giàu sức gợi. Để rồi khi đọc xong bài thơ, ta chợt thấy như thu đã về trong tâm hồn mình. Giáo viên: Nguyễn Thị Thanh Vân Email: phuongnamnt47@gmail.com Đề bài: Viết bài văn cảm nhận về hai khổ thơ sau: (SANG THU) Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về. Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Có đám mây mùa hạ
  25. Vắt nửa mình sang thu. ( Hữu Thỉnh, Sang thu ) Bài làm. Một lá ngô đồng rụng/ Thiên hạ biết thu về Mùa thu - mùa tạo cảm hứng vô tận cho thơ ca nhạc họa, nó đi vào thơ ca như một lẽ tự nhiên. Cùng với mùa xuân, mùa thu đã trở thành mùa cổ điển trong thơ ca Việt Nam và Trung Quốc.Với các thi nhân như Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư mùa thu lưu dấu ấn của mình trong những vần thơ đượm một vẻ riêng trong trẻo. Song đến lượt mình, rất khiêm nhường và nhỏ nhẹ, Hữu Thỉnh lại làm cho mùa thu có thêm hương sắc mới mà đặc biệt là hai khổ thơ đầu – một bức tranh giao mùa nhẹ nhàng, thơ mộng, bâng khuâng Hữu Thỉnh là nhà thơ chiến sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ cứu nước, có nhiều đóng góp cho nền văn học hiện đại nước nhà. Thơ Hữu Thỉnh ấm áp tình người và giàu sức gợi cảm. Sang thu được ông viết năm 1977 khi đất nước vừa thống nhất được 2 năm, cũng là lúc nhà thơ đắm chìm trong sự tĩnh lặng, yên bình của làng quê, bài thơ in trong tập Từ chiến hào đến thành phố. Khổ thơ mở đầu làm rung động người đọc bởi tín hiệu báo thu về. Bỗng nhận ra hương ổi Phả vào trong gió se Sương chùng chình qua ngõ Hình như thu đã về. Ai cũng biết, thiên nhiên ưu đãi cho mùa thu Hà Thành hương cốm mới hay mùi thơm của hương hoa sữa đẹp đến nao lòng người. Thì với Hữu Thỉnh, tín hiệu thu về nơi miền quê Bắc Bộ lại hiện ra với 3 hình ảnh thân thuộc: hương ổi, gió se và sương chùng chình – những hình ảnh bình dị, gần gũi vừa lạ vừa quen mang nét riêng rất Hữu Thỉnh. Phải chăng, thu đến bằng mùi hương ngọt ngào, dịu nhẹ, trong mát, nồng nàn khi trái ổi vàng tươi bắt đầu vào độ chín – dư vị dặc trưng của đồng quê Bắc Bộ. Hơn nữa, bức tranh thu còn được tô điểm bởi làn gió se - gió heo may đầu thu khô và hanh se mà chưa lạnh lẽo. Động từ phả cho thấy một sự vận động tinh tế của hương ổi, nó như đang tỏa đều, trộn lẫn, chủ động gửi mình vào gió heo may rồi lan tỏa khắp vườn thôn ngõ xóm, đến gõ cửa từng nhà. Phép nhân hóa qua hình ảnh sương chùng chình khiến sương hiện lên như một con người - một thiếu nữ duyên dáng, thướt tha - đang cố ý chậm lại bịn rịn, lưu luyến mùa hạ nồng nàn lửa cháy mà chưa muốn bước sang ngõ của mùa thu. Bởi vậy ngõ trở thành hình ảnh đa nghĩa: ngõ thực của làng quê và cũng là ngõ của thời gian. Đặc biệt, hình ảnh sương chùng chình còn gợi chuyển động rất chậm, rất khẽ tạo nên bức tranh quê thơ mộng, dịu dàng như
  26. cõi thần tiên. Phải chăng, cảnh vật giao mùa hiện lên với vẻ đẹp mong manh, mơ hồ, hư ảo khiến cảm nhận nhà thơ cũng mơ hồ. Sự mơ hồ ấy thể hiện rõ qua từ bỗng mở đầu bài thơ. Từ bỗng chất chứa sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng, thu đến như không hề hẹn trước nên anh chưa chắc chắn mà còn nghi hoặc trong lòng và bâng khuâng phỏng đoán Hình như thu đã về. Như vậy, tín hiệu báo thu về được nhà thơ cảm nhận bằng khứu giác, thị giác, xúc giác và bằng cả tâm hồn mình. Lát cắt của khúc giao mùa hạ - thu được cảm nhận bằng những món quà quê trong sự chuyển biến rất nhẹ, rất dịu, rất êm, rất mơ hồ như một làn gió thoảng qua như gợi về kí ức của một thời tuổi thơ. Đặt trong hoàn cảnh tác giả và đất nước vừa bước ra khỏi cuộc chiến tranh vệ quốc được 2 năm ta mới thấy hết sự rung động và trân quý của nhà thơ trước vẻ đẹp của cuộc sống đời thường. Tiếp theo mạch cảm xúc là vẻ đẹp của đất trời cảnh vật trong khoảnh khắc giao mùa. Nếu khổ thơ thứ nhất là sự bất chợt ngỡ ngàng trước tín hiệu báo thu về thì khổ thơ thứ hai là sự chủ động quan sát và cảm nhận cảnh chuyển mùa. Không gian thu ở khổ hai được mở rộng hơn, có chiều dài, chiều rộng và cả chiều cao. Sông được lúc dềnh dàng Chim bắt đầu vội vã Dưới mặt đất là hình ảnh dòng sông trong thời khắc chuyển mùa. Phép nhân hóa được lúc khiến dòng sông như biết tranh thủ khảnh khắc giao mùa hạ - thu vô cùng ngắn ngủi. Từ láy dềnh dàng gợi hình ảnh dòng sông không hối hả, ào ạt đục ngàu chảy siết như khi mùa hạ mà nó đang lười biếng, chậm chạp êm trôi lững lờ với dòng nước xanh trong. Hình ảnh ấy khiến ta liên tưởng đến những vần thơ của nữ sĩ Xuân Quỳnh: Tình ta như hàng cây/ Đã qua mùa bão tố Tình ta như dòng sông/ Đã yên ngày thác lũ. Trên bầu trời là hình ảnh những chú chim bay về phương Nam tránh rét. Từ vội vã gợi ta liên tưởng những cánh chim đang khẩn trương tìm về tổ ấm hay chuẩn bị cho những chuyến di cư về phương Nam tránh rét. Nhà thơ thật nhạy cảm và tinh tế khi đã nhận ra cả sự “bắt đầu” trong những cánh chim bay. Trong khổ thơ này, hình ảnh đám mây mùa hạ là độc đáo nhất: Có đám mây mùa hạ Vắt nửa mình sang thu.
  27. Hai dòng thơ đầy sáng tạo và giàu chất tạo hình giúp ta cảm nhận bầu trời như chia thành hai nửa hạ và thu. Phép nhân hóa Vắt nửa mình gợi hình ảnh đám mây trải dài, mỏng, nhẹ như tấm khăn voan của cô thiếu nữ bỏ quên giữa bầu trời. Đám mây ấy vắt một nửa mình ở bầu trời mùa hạ, một nửa mình đã bên bầu trời mùa thu khiến nó trở thành chiếc cầu nối liền đôi bờ hạ - thu. Điều đó cũng khiến ta liên tưởng tới hình ảnh đám mây khác trong thơ Hữu Thỉnh: Đám mây trên Việt Yên Rủ bóng về Bố Hạ. Như vậy, bằng những cảm nhận tinh tế và tài quan sát siêu Việt, Hữu Thỉnh cho ta cảm nhận được hạ vẫn còn đó mà thu đã chớm về rất nhẹ, rất dịu, rất êm. Cả đất trời như đang rùng mình thay áo mới trong khúc biến tấu giao mùa hạ - thu. Với thể thơ 5 chữ, hình ảnh gần gũi giản dị và mang ý nghĩa biểu tượng, ngôn ngữ nhẹ nhàng, trong sáng gợi cảm Đặc biệt bài thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa miêu tả với chất triết lí suy tư. Điều đó giúp ta thấy được cảm nhận tinh tế của Hữu Thỉnh khi đất trời chuyển mùa từ hạ sang thu – một dáng thu mong manh trong khoảnh khắc giao mùa. Hơn nữa, thi phẩm còn khẳng định bản lĩnh của nhà thơ và của cả một thế hệ đã từng đi qua chiến tranh trước những biến thiên bất thường của cuộc sống. Vì vậy mà “Sang thu” đã trở thành bài thơ giàu ý nghĩa và lắng đọng mãi trong lòng người đọc. Như vậy, chỉ với mười dòng thơ, tác giả như mang đến cho người đọc một món quà thu nhẹ nhàng mà đơn sơ dân dã, bức tranh ấy đã góp thêm cho vườn thơ thu Việt Nam một hương sắc mới đậm hơi thở bình yên của cuộc sống đời thường. Đọc “Sang thu”, chúng ta như thêm yêu mến, tự hào hơn về quê hương, đất nước và con người Việt Nam, về mùa thu xứ Bắc. -Hết- DỰ ÁN 9: NGHỊ LUẬN VĂN HỌC Giáo viên : Lưu Thị Bắc ( Kiều Bắc) Đơn vị: Trường THCS Định Long- huyện Yên Định – tỉnh Thanh Hóa
  28. Gmail: kieubac1979@gmail.com Đề bài 17: Vẻ đẹp của nhân vật Phương Định trong tác phẩm Những ngôi sao xa xôi của Lê Minh Khuê Mở bài Trong đội ngũ cả dân tộc ra trận thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước có một binh chủng rất đặc biệt - Nữ thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại nối liền Bắc Nam. Truyện kể rằng: em, cô gái mở đường Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương Cho đoàn xe kịp giờ ra trận Em đã lấy tình yêu tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa Đánh lạc hướng quân thù hứng lấy những luồng bom (Khoảng trời hố bom – Lâm Thị Mỹ Dạ) Lịch sử không quên ghi lại những năm tháng hào hùng ấy. Đặc biệt trong tác phẩm “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê đã khắc hoạ thành công hình ảnh những người chiến sĩ thanh niên xung phong mang vẻ đẹp tâm hồn và phẩm chất anh hùng cách mạng. Họ là những ngôi sao xa xôi trong hàng trăm nghìn những ngôi sao luôn toả sáng lấp lánh, một thứ ánh sáng không rực rỡ mà sáng trong. Ánh sáng ấy luôn soi rọi tâm hồn chúng ta, tiếp bước cho thế hệ mai sau. Những ngôi sao ấy tưởng chừng như rất xa xôi nhưng lại vô cùng gần gũi trong lòng yêu thương của mọi người. Đặc biệt hình ảnh được khắc họa rõ nhất là qua nhân vật Phương Định. Thân bài LĐ 1. Hoàn cảnh sống, công việc, lai lịch * Lai lịch Phương Định cũng như Nho và chị Thao, sinh ra và lớn lên tại vùng đất Hà Thành. Đáng lẽ, cô dễ dàng tìm cho mình một chỗ ngồi nơi giảng đường đại học, quanh cô tíu tít những bạn bè áo trắng mơ mộng. Thế nhưng theo tiếng gọi thiêng liêng của tổ quốc, cô tạm gác tất cả những riêng tư để lên đường vì nghĩa lớn với tinh thần. Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước Mà lòng phơi phới dậy tương lai . * Hoàn cảnh
  29. Họ mang tinh thần ấy vào chiến trường, nơi họ sống và làm việc là trong một cái hang trên cao điểm ở một vùng trọng điểm giữa núi rừng Trường Sơn. Nơi tập trung nhiều bom đạn đánh phá ác liệt Đường bị đánh lở loét, cây bị tước cháy khô, vài cái thùng xăng méo mó, khói đen vật vờ Chứng tỏ nơi đây vô cùng khốc liệt và hiểm nguy, họ luôn phải đối mặt với thần chết. Trong những năm tháng ấy, con đường Trường Sơn huyền thoại luôn phải oằn mình chịu sự tàn phá của bom đạn chiến tranh như vậy. * Công việc Trong hoàn cảnh ấy họ có cùng chung một nhiệm vụ vô cùng quan trọng : Tổ trinh sát mặt đường. Công việc cụ thể là quan sát, đánh dấu những quả bom chưa nổ, đo lượng đất đá để san lấp hố bom, và nhiệm vụ quan trọng rất nguy hiểm là phải phá những quả bom chưa nổ. Công việc của họ không tực tiếp đối mặt với kẻ thù nhưng lại đối diện với thần chết. Đó là công việc vô cùng nguy hiểm có thể hy sinh bất kì lúc nào. Đòi hỏi phải có tinh thần dũng cảm, bình tĩnh, can đảm và sẵn sàng hy sinh. Đây chính là công việc chung của thế hệ trẻ trong những năm tháng chống Mỹ cứu nước trên tuyến đường Trường Sơn. LĐ 2. Vẻ đẹp hình thức và vẻ đẹp tâm hồn * Vẻ đẹp hình thức Từ hoàn cảnh sống và công việc gian khổ như vậy nhưng Phương Định luôn giữ cho mình vẻ đẹp hình thức và tâm hồn đáng khâm phục. Ấn tượng đầu tiên về Phương Định là vẻ đẹp hình thức. Cô tự giới thiệu mình là cô giá khá, có hai bím tóc dày, có cái cổ cao kiêu hãnh như đài hoa loa kèn. Còn đôi mắt nàng, đôi mắt có cái nhìn sao mà xa xăm. Cô thích ngắm mình trong gương. Chiến trường khốc liệt có thể huỷ diệt thiên nhiên làng mạc nhưng không thể đốt cháy vẻ đẹp hình thức đáng yêu và tâm hồn nhạy cảm của cô cũng như những chiến sĩ Trường Sơn. Vẻ đẹp kiêu hãnh ấy như thách thức với bom đạn, với chiến tranh. * Sở thích Cô cũng như bao chiến sĩ trẻ trong những năm tháng khốc liệt ấy có sở thích chung là thích hát. Hồi ở nhà, cô hát say mê, hát ầm ĩ, làm ông bác sĩ hàng xóm phải mất ngủ. Có lần cô say sưa hát mà suýt ngã từ cửa sổ xuống lan can. Cô đem cả lòng say mê ca hát vào trong chiến trường ác liệt. Cô hát những khúc bộ hành, bài quan họ, dân ca Ý, cô còn bịa ra cả những bài hát. Trong những năm tháng khốc liệt ấy, tiếng hát át tiếng bom, tiếng hát tiếp thêm nghị lực, sức mạnh, có niềm tin để người chiến sĩ vươn lên tất cả những gian khổ, hiểm nguy. Góp phần làm nên những chiến thắng vang dội năm châu, chấn động địa cầu. Trong bản trường ca chiến thắng của cả dân tộc không thể không kể đến tiếng hát của bộ đội chiến sĩ nơi núi rừng Trường Sơn. * Tâm hồn trẻ trung hồn nhiên yêu đời, hay mơ mộng
  30. Cô vừa bước qua tuổi học trò hồn nhiên, vô tư, yêu đời, hay mơ mộng. Cô mang tâm hồn ấy vào trong chiến trường. Giữa núi rừng Trương Sơn, nơi bom đạn mù trời, khói đen vật vờ, thần kinh căng như chão, bỗng một cơn mưa đá trút xuống. Phương Định vui thích cuống cuồng như trẻ con nhận được quà chạy ra nhặt những viên đá mà niềm vui như nổ tung. Trận mưa đá như xoa dịu bớt đi sự ngột ngạt của chiến tranh. Mưa tạnh, cô tiếc nuối và tất cả những kỷ niệm lại ùa về: Cô nhớ về mẹ, nhớ những ngôi sao trên bầu trời, nhớ con đường, vòm cây, nhớ cả tiếng giao của bà bán xôi sáng Tất cả như liều thuốc tinh thần động viên, an ủi cô vượt qua những thử thách nơi bom rơi đạn nổ. LĐ 3. Vẻ đẹp phẩm chất anh hùng cách mạng * Tinh thần tự giác có trách nhiệm cao trong công việc Giản dị lắm mà anh hùng lắm chứ! các cô tiêu thư Hà Nội ấy! Các cô gái từng làm nũng mẹ, từng gào to gọi mẹ chỉ vì chồng sách vở trên bàn không biết cách nào xếp cho nó gọn. Và mẹ phải cằn nhằn: Con gái con nứa gì mày, lấy chồng rồi cũng no đòn” Thế mà hôm nay, con gái mẹ đã trở thành chiến sĩ gan dạ kiên cường, luôn có tinh thần trách nhiệm cao với quê hương, đất nước. Nơi chiến trường ác liệt ấy, các cô luôn tự bảo ban phân công để hoàn thành tốt nhiệm vụ: san lấp hố bom, đặc biệt là phá bom “Quen rồi. Một ngày chúng tôi phá bom đến măm lần, ngày nào ít ba lần. Chúng tôi có nghĩ đến cái chết, một cái chết mờ nhạt, không cụ thể, còn cái chính là liệu mìn có nổ, bom có nổ không?” Tinh thần trách nhiệm cao cả ấy không riêng gì ba cô gái mà là tinh thần chung của cả thế hệ trẻ Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Bởi họ đều mang trong mình dòng máu con Lạc cháu Hồng sẽ sẵn sàng nhất tề đứng lên vì Tổ quốc. * Sự gan dạ, dũng cảm, kiên cường, bất khuất và sẵn sàng hy sinh Một ngày trên tuyến đường Trường Sơn máu lửa, tác giả chỉ ghi lại một lần phá bom trong hàng trăm ngìn lần mà Phương Định cũng như bao chiến sĩ đã trải qua. Sự vắng lặng, cây cối xơ xác, khói đen vật vờ. Thần chết là một tay không thích đùa, hắn ta lẫn trong ruột những quả bom. Quả bom ấy có thể nổ bây giờ hoặc nổ bất kì khi nào. Cô cũng sợ, nên lúc đầu cô phải đi khom nhưng rồi cô nghĩ các anh cao xạ không thích mình đi khom thế nên cô lấy hết can đảm để đàng hoang mà bước tới. Chỉ bằng chúng ấy chi tết người đọc đã hình dung ra sự ngột ngạt của chiến trường như bóp nghẹt trái tim. Thật đáng sợ khi phải làm cái việc chọc giận thần chết. Các cô phải ra tay trước nó, phải tiêu diệt nó. Thử hỏi nếu không có sự gan dạ, dũng cảm, kiên cường và sẵn sàng hy sinh liệu các cô ấy có vượt qua được những thử thách ấy không?
  31. Những trang sử Trường Sơn không thể quên ghi một ngày như thế. Chúng ta tự hào về những người chiến sĩ như Phương Định và đồng đội của cô. Có biết bao người bị bom vùi mà không phải bị thương xoàng như Nho. Họ vĩnh viễn nằm lại nơi chiến trường. May mắn có người được trở về quê hương thì tuổi xuân đã hết, họ sống trong gieo neo, lay lắt. * Tinh thần đồng chí đồng đội, đoàn kết, gắn bó yêu thương nhau Họ là những người xa lạ đến từ mọi miền của Tổ quốc nhưng họ gắn bó yêu thương nhau như trong gia đình. Phương Định tỏ ra kiêu, đứng từ xa ngắm nhìn mà không vồn vã chạy đến nói chuyện như người khác khi có anh bộ đội nói giỏi nào đấy đi qua. Nhưng thực ra cô rất trân trọng và cảm phục những người chiến sĩ trực tiếp chiến đấu ngoài chiến trường. Trong suy nghĩ của cô, những người đẹp nhất, can đảm và cao thượng nhất là những người mặc quân phục có ngôi sao trên mũ. Khi chị Thao lên cao điểm chưa về Phương Định lo lắng đến mức gắt cả anh đại đội trưởng trong điện thoại. Nho bị thương, Phương Định và chị Thao lo lắng chăm sóc cho Nho tận tình chu đáo. Vậy đấy, tinh thần đồng chí đồng đội của những người chiến sĩ thật thiêng liêng cao cả. Nó như sợi dây vô hình lấp lánh xuyên suốt thời gian. Dù chỉ là cái nắm tay truyền cho nhau hơi ấm vượt qua những thử thách khắc nghiệt, dù chỉ là chung bát, chung đũa nơi núi rừng Trường Sơn nhưng tất cả làm nên một sức mạnh phi thường để có chiến thắng vẻ vang như ngày hôm nay. Đất nước mình nhân hậu Có nước trời xoa dịu vết thương đau Em nằm dưới đất sâu Như khoảng trời nằm yên trong đất Đêm đêm, tâm hồn em tỏa sáng Những vì sao ngời chói, lung linh. (Khoảng trời hố bom – Lâm Thị Mỹ Dạ) * Liên hệ cuộc sống Càng tự hào và biết ơn thế hệ đi trước đã đổ máu cho đất nước để chúng ta được sống trong hoà bình. Nhiệm vụ của chúng ta ngày hôm nay không còn phải đối mặt với thần chết nhưng cũng không kém phần nặng nề. Vì vậy chúng ta cần làm chủ được tương lai của mình, kế thừa và phát huy được những vẻ đẹp của các lớp lớp cha anh. Ngay từ bây giờ, hãy chuẩn bị cho mình một hành trang vững trãi để bước đi trên con đường mới.
  32. Kết bài Chị em tôi toả nắng vàng lịch sử Nắng cho đời và nắng cũng cho thơ. (Huy Cận) Đường Trường Sơn, nơi thử thách ý chí, khí phách của con người Việt nam. Chính những con người như Phương Đinh, Nho, Chị Thao - “những bông hoa trên tuyến lửa”-đã làm nên một bài ca tuyệt vời. Sức trẻ, lòng yêu nước, khát vọng hoà bình đã tạo nên một bản anh hùng ca bất diệt vang mãi đến mai sau. ( Nguồn trich : Cẩm nang ôn thi vào 10 – Tác giả Kiều Bắc) Giáo viên: Nguyễn Thị Thảo Email: ntthaotp80@gmail.com Đề Bài : Cảm nhận về tình đồng chí, đồng đội qua bài thơ “ Đồng chí” của Chính Hữu. Viết về người lính và chiến tranh nhưng văn thơ hiện đại Việt Nam không đi sâu khai thác những khó khăn gian khổ, những mất mát đau thương của những người lính mà chủ yếu hướng ngòi bút của mình khai thác vẻ đẹp của người lính trên nhiều bình diện, đặc biệt là tình đồng chí đồng đội của những người lính cách mạng. Bài thơ “Đồng Chí” Chính Hữu đã có những đõng góp không nhỏ vào đề tài trên. Bài thơ được viết năm 1948, giai đoạn đầu của cuộc kc chống Pháp khi tác giả cùng đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc 1947. bài thơ cho thấy sức mạnh của tình đồng chí, đồng đội và sự gắn bó keo sơn, bền chặt của họ. Tình đồng chí, đồng đội được hình thành trong sự cùng chung nhiệm vụ, chung lý tưởng, sống có nhau. Hai câu thơ mở đầu bằng giọng thơ thủ thỉ tâm tình, lời thơ mộc
  33. mạc tự nhiên, với cấu trúc song hành “Quê anh” “Làng tôi”, tác giả làm hiện lên gương mặt người chiến sĩ, họ như đang tâm sự với nhau : Quê hương anh nước mặn đồng chua Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá Chúng ta đều là những người nông dân chân đất, áo nâu, lần đầu tiên mặc áo lính. Thành ngữ “Nước mặn đồng chua”, hình ảnh gợi cảm “Đất cày lên sỏi đá” cho ta biết hoàn cảnh của những người lính. Người ở vùng chiêm chũng ven biển đất nhiễm mặn, người ở vùng trung du đất bạc màu khó làm ăn, “Đất không nuôi nổi người, người không nuôi nổi đất”( CLV). Tuy khác nhau về địa giới nhưng cùng chung cảnh ngộ, chung nguồn gốc xuất thân từ những người nông dân nghèo lam lũ. Theo tiếng gọi của tổ quôc, họ cùng chung một chiến hào đánh Mĩ và trở thành những người lính cách mạng. Hình ảnh của họ giúp ta liên tưởng tới người nghĩa sĩ Cần Giuộc năm xưa : “ Chỉ biết ruộng trâu ở trong làng bộ. việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy tay vốn quen làm, tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó”. Trước khi vào quân ngũ, họ vốn là những người xa lạ chưa hề quen nhau : Anh với tôi đôi người xa lạ Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau. Đúng vậy những người lính đó mỗi người một quê, cách nhau cả một phương trời, đất đai canh tác phong tục tập quán khác nhau, họ hoàn toàn xa lạ với nhau: Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ Gặp nhau từ hồi chua biết chữ Quen nhau từ thuẩ một hai Sung bắn chua quen, quân sự mươi bài Nhưng vì sao họ “Chẳng hẹn” lại “Quen nhau” như vậy ? Những người lính đó ra đi, rời bở quê hương không phải vì cái nghèo xô đẩy, cũng không vì một lời hò hẹn nào. Mà đó là sự hò hẹn từ bên trong, nơi đỉnh cao của tấm lòng yêu nước: chiến đấu bảo vệ dộc lập tự do của tổ quốc nên họ từ “xa lạ”, chẳng hẹn lại “ gặp nhau” , “quen nhau” : Súng bên sung, đầu sát bên đầu Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
  34. Câu thơ sử dụng nhiều hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng “Súng” là biểu tượng cho nhiệm vụ, mục đích chiến đấu. “Đầu” biểu tượng cho ý chí, tình cảm yêu quê hương đất nước. Điệp từ “Bên” gợi ra mối quan hệ khăng khít của những con người chung tình cảm yêu quê hương đất nước, chung ý chí, mục đích, nhiệm vụ, cho nên họ đã chung một chiên hào đánh Pháp . Trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến gian khổ, tình cảm của họ càng được củng cố, phát triển và ngày càng gắn bó trong sự chan hòa chia sẻ mọi gian lao của cuộc đời người lính : “ Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”, “Đôi tri kỉ” là đôi bạn thân thiết gắn bó sẵn sàng chia ngọt sẻ bùi từ “hớp nước uống chung”, “bát cơm sẻ nửa” đến “ Thương nhau chia củ sắn lùi” Cũng chính từ trong gian khổ đó tình cảm của họn càng được tôi luyện, phát triển trở nên thắm thiết và kết tinh thành thứ tình cảm đẹp đẽ nhất, thiêng liêng nhất, tinh hoa nhất trong tình cảm con người, đó là “Tình đồng chí, đồng đội ”, được tác giả diễn tả độc đáo bằng câu thơ cuối đoạn. Câu thơ được rút ngắn đột ngột với câu trúc đặc biệt gồm hai tiếng và một dấu chấm than: “ĐỒNG CHÍ”, như buộc người đọc phải dừng lại nghĩ suy về ý nghĩa hai tiếng đó gợi ra, hai tiếng vừa quen, vừa lạ, mang bao ý nghĩa đứng giữa bài thơ. Nói như Nguyễn Đức Quyền “ Nó như cái lưng ong thắt lại, tạo cho bài thơ một kết cấu mới lạ, một kết câu chính luận trong thơ”, và dấu chấm than đi kèm chất chứa bao tình cảm trừu mến thân thương. Đây là sự dồn nén tình cảm của những câu thơ trước nó, để mở ra những câu thơ sau . Nó như tiếng gọi kiêu hãnh, một nốt nhấn trong bản đàn làm sáng ngời chủ đề của bài thơ . Có thể nói, với 7 câu thơ ngắn gọn, tác giả khắc họa chân thực hình ảnh người lính cách mạng và cơ sở hình thành tình đồng chí : Chung cảnh ngộ, chung nguồn gốc xuất thân, chung mục đích lí tưởng chiến đấu, chung tình yêu quê hương đất nước, cho nên nó bền vững và có sức mạnh to lớn. Nhờ có tình đồng chí mà những người lính sẵn sang cảm thông chia sẻ những điều thầm kín nhất ở hậu phương, để họ hiểu nhau, thương nhau hơn . Đó là quê hương còn nhiều đói nghèo vất vả : Ruộng nương anh gửi ban thân cày Gian nhà không mặc kệ gió lung lay Câu thơ không bộc lộ cảm xúc trực tiếp, nhưng đọc lên ta thấy nặng trữu tình cảm yêu thương. Theo tiếng gọi của tổ quốc , người lính ra đi chiến đấu, bỏ lại đằng sau là quê hương còn nhiều đói nghèo vất vả : Nhà neo người, ruộng nương không người cày cấy phải “gửi bạn thân cày”, cuộc sống nhiều thiếu thốn “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay” . Chữ “Không” ở đây dùng rất gợi, nó vừa đủ để diễn tả cái nghèo, vừa gợi tả được sự trống trải của lòng người ở lại. Nhưng người lính vẫn dứt áo ra đi , Từ “Mặc kệ” đã thể hiện được vẻ đẹp tinh thần của người lính. Họ sẵn sàng gạt bỏ mọi nỗi niềm riêng tư để quyết tâm ra đi
  35. chiến đấu vì lí tưởng . Câu thơ gợi nhớ đến hình ảnh người lính trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi : Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy Hay những câu thơ của Phạm Tiến Duật: Anh lên xe trời đổ cơn mưa Cái gạt nước xua đi nỗi nhớ Anh xuống núi nắng về rực rỡ Cái nhành cây gạt mối riêng tư Đặc biệt là nỗi nhớ người thân và gia đình. Đó là sự nhớ thương da diết, sự trông ngóng mỏi mòn của những người vợ, người mẹ và những đứa con thơ ngày đem bên cối gạo “ Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”. Hình ảnh hoán dụ “Giếng nước” , “Gốc đa” gợi ta nhớ tới nơi hội tụ, hò hẹn, nơi diễn ra những kỉ niệm một thời gắn bó với quê hương. Chữ “Nhớ” trong nghệ thuật nhân hóa đã tô đậm được sự thương nhớ người thân đối với người ra lính, hay chính tấm lòng người lính không nguôi nhớ quê hương, đã tạo ra cho giếng nước gốc đa một tâm hồn. Người lính còn chia sẻ với nhau cả những gian lao thiếu thốn ngoài chiến trường để vượt qua mọi khó khăn : Anh với tôi biết từng cơn ớn lanh Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá Miệng cười buôt giá chân không giày Nếu như trước đây trong bài thơ “Ngày về”, hình ảnh người lính trong thơ Chính Hữu vẫn còn mang dáng vẻ của kẻ chinh phu, mang đậm chất ước lệ, thi vị hóa Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dăm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa
  36. Thì đến bài thơ này bằng những hình ảnh chân thực cụ thể, lướt nhanh dồn dập trên những câu thơ sóng đôi liên tiếp, đã tái hiện được biết bao khó khăn của cuộc đời người lính trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ : Đó là những cơn sốt rét rừng quái ác hành hạ, không có thuốc men chạy chữa, khiến họ bị viêm gan, viêm lá lách, da vàng, tóc rụng. Nhà thơ Quang Dũng trong bài thơ “Tây tiến” xúc động viết : “Tây tiến đoàn binh không mọc tóc” , còn Tố Hữu trong bài “Cá nước” là : “Giọt giọt mồ hôi rơi trên má anh vàng nghệ”. “Aó rách”, “quần vá” cũng là hiện thực người lính phải chịu đựng lúc bấy giờ. Người lính phải mặc những bộ quần áo nâu từ đồng ruộng ra chiến trường, chẳng mấy bị rách nát, lúc đầu họ còn có chỉ để khâu, sau chỉ hết họ phải lấy dây rừng buộc túm lại. Nhân dân đã gọi các anh bằng cái tên xúc động yêu thương “ Vệ túm” , “Vệ nâu”, “miệng cười buốt giá, chân không giày” cũng là thực, họ là những người lính “Áo vải chân không đi lùng giặc đánh” Nhưng vẻ đẹp của họ được tỏa sáng chính là từ trong khó khăn gian khổ họ vẫn tràn đầy tinh thần lạc quan “ Miệng cười buốt giá”, một nụ cười ngạo nghễ bất chấp gian khổ hiểm nguy, bởi họ có hơi ấm của tình đồng chí đồng đội tiếp thêm sức mạnh : “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Câu thơ có chủ ngữ ẩn, “Thương nhau” được đặt lên đầu câu thơ. Nhịp thơ lắng lại trong sự xúc động, đã diễn tả một chi tiết giản dị, một cử chỉ thân thiết yêu thương của những người lính vừa phải trải qua bao gian khổ, mất mát hi sinh. Một biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí đồng đội. Cái nắm tay không ồn ào vồn vã : “tay bắt mặt mừng”mà lắng xuống ở độ sâu cảm xúc. Bàn tay nói lời im lặng của sự đoàn kết gắn bó, sự cảm thông chia sẻ, và sự hứa hẹn lập công. Bàn tay ấm nóng tình người, sưởi ấm cho nhau trong buốt giá “Nắm bàn tay mà ấm cả bàn chân. Biết bao tình cảm không lời chứa đựng trong cái nắm tay ấy. Điều đáng chú ý ở đây là chữ “anh” luôn luôn đặt trước chữ “tôi”. Người chiến sĩ luôn luôn nhìn bạn, nói về bạn trước khi nói về mình. Cách nói ấy đã thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn người lính “Thương người như thể thương thân”. Các câu thơ thể hiện nét mới trong cách biểu hiện của Chính Hữu : Khai thác vẻ đẹp và chất thơ trong cái bình dị đời thường. Các hình ảnh chi tiết đưa vào thơ, không hề tô vẽ nhưng lại có sức gợi lớn. Vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí đồng đội được tỏa sáng trên nền tảng ấy. Ba câu thơ cuối một biểu tượng đẹp, kết tinh của tình đồng chí: Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo Ba câu thơ cuối như dựng lên tượng đài sừng sững về tình đồng chí của những người chiến sĩ, trên cái nền hùng vĩ, khắc nghiệt của thiên nhiên : “Đêm” , “Rừng hoang”, “Sương muối”. Nhưng tình đồng chí đã sưởi ấm họ, giúp họ vượt qua khó khăn khắc nghiệt của
  37. thời tiết: “ Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Câu thơ không có chủ ngữ nhưng ta có thể hiểu đó là những người lính đang làm nhiệm vụ, họ đứng cạnh bên nhau trong một chiến hào, chủ động chờ đón đánh địch, trong một không gian thơ mộng . Chính nơi sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc này, lại là nơi tôi luyện thử thách tình cảm và phẩm chất cao đẹp của họ. Trong đêm phục kích giặc giữa rừng, người lính còn có người bạn nữa là vầng trăng, trăng trôi trên nền trời, trăng như treo trên đầu súng “Đầu súng trăng treo”. Câu thơ vừa mang tính hiện thực, giàu tính lãng mạn vừa nên thơ, đã khái quát được vẻ đẹp của cuộc đời người chiến sĩ . Hiện thực là bởi trong đêm người lính đứng gác, mũi súng chếch lên trăng ngả xuống bìa rừng, trong cảm giác của con người trăng như treo ở đầu súng. Lãng mạn, nên thơ là bởi, súng và trăng cũng tạo nên một cặp đồng chí, tô đậm vẻ đẹp của cặp đồng chí kia . Súng là biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, trăng là biểu tượng của cuộc sống hòa bình. Người lính cầm súng chiến đấu để bảo vệ vầng trăng hòa bình. Ba hình ảnh : Súng- trăng- người lính, gắn bó hòa quện, tôn lên vẻ đẹp của nhau. Sự hòa hợp giữa súng và trăng, vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính, vừa nói lên được ý nghĩa cao đẹp của cuộc chiến tranh yêu nước. Người lính trong thời kì gian khổ ấy đã vượt lên một tầm cao mới, trong tư thế làm chủ thiên nhiên, bầu bạn với thiên nhiên. Bức tranh kết lại trong một hình ảnh đẹp: có cái gần - có xa, có cái lạnh lẽo của thời tiết - có cái ấm cúng của tình người, có cái căng thẳng của chiến tranh - có cái êm ả của tâm hồn, vừa có tình cảm chân thực của chiến sĩ, vừa có chất lãng mạn thi sĩ. Đây là ý thơ tâm đắc nhắt của nhà thơ, vì vậy ông đã lấy dòng thơ cuối này làm nhan đề cho cả tập thơ viết về người lính. Đã hơn 70 năm trôi qua, nhưng bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu vẫn có một vị trí vững vàng trong thơ ca kháng chiến, và trong lòng mỗi người đọc, bởi lẽ bài thơ ngắn, nhưng có tính khái quát cao, có giá trị sâu sắc, không những tái hiện được hoàn cảnh chiến đấu mà còn thể hiện được tình đồng chí đồng đội thiêng gắn bó của những người lình cách mạng tron kháng chiến chống Pháp - người anh hùng áo vải thời đại HCM. Bài thơ là một bức tượng đài chiến sĩ tráng lệ sẽ bât tử cùng thời gian . Giáo viên: Nguyễn Thị Thơm
  38. Email: nguyenthomht2011@gmail.com Đề bài: Nhận xét về “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có ý kiến cho rằng: “ Phạm Tiến Duật đã sáng tạo được một hình ảnh thơ độc đáo, qua đó làm nổi bật chân dung người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa”. Suy nghĩ của em về ý kiến trên? Bài làm Có những tác phẩm người đọc quên ngay sau khi gấp lại những trang sách. Nhưng cũng có những tác phẩm theo dòng thời gian cứ lưu giữ mãi trong tâm hồn độc giả, bồi đắp cho chúng ta những tình cảm cao đẹp ở đời. “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật là một bài thơ như thế. Đến với tác phẩm, mỗi người đọc thật sự ấn tượng về hình ảnh những chiếc xe không kính và vẻ đẹp của những người lính lái xe Trường Sơn, tiêu biểu cho thế hệ trẻ Việt Nam thời chống Mỹ cứu nước. Nhận xét về bài thơ, có ý kiến cho rằng: “ Phạm Tiến Duật đã sáng tạo được một hình ảnh thơ độc đáo, qua đó làm nổi bật chân dung người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa.” “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” ra đời năm 1969, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng ác liệt, với bẩy khổ thơ tự do, không gò bó về vần điệu, ngôn ngữ đậm chất văn xuôi, Phạm Tiến Duật đã sáng tạo được một hình tượng thơ độc đáo mang hơi thở nóng hổi của chiến tranh: hình tượng những chiếc xe không kính băng băng trên đường ra trận, đồng thời làm nổi bật chân dung tinh thần của người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời đánh Mỹ. Hình tượng thơ độc đáo được Phạm Tiến Duật sáng tạo trong bài thơ là hình tượng những chiếc xe không kính. Từng có mặt trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mỹ, Phạm Tiến Duật đã từng tận mắt chứng kiến những chiếc xe không kính băng băng trên đường ra trận. Chính hình ảnh những chiếc xe không kính, tiểu đội xe không kính đã khơi nguồn cảm hứng cho nhà thơ. Bằng một giọng thơ vừa như đối thoại, vừa như phân bua, gây sự chú ý, mở đầu nhà thơ viết: Không có kính không phải vì xe không có kính Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày, chắc khỏe như tác phong người lính. Từ ngữ phủ định “không” lặp lại ba lần, chuyển sang ý khẳng định: những chiếc xe không kính vốn không phải là một chủng loại riêng, không phải là thiết kế của những nhà sản xuất. Vậy vì sao? Bất thường này được giải thích một cách rất thản nhiên:
  39. “Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi” Câu thơ là lời lí giải nguyên nhân làm cho những chiếc xe không kính. Điệp từ “bom”, kết hợp với các động từ mạnh “giật”, “rung” cho thấy sự ác liệt của chiến trường ngững năm chống Mỹ. Thì ra cuộc chiến tranh thời kì 1969- 1970 đã làm cho những chiếc xe vận tải biến dạng. Giặc Mỹ tàn bạo muốn cô lập miền Nam, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc đã trút bom xuống những cánh rừng Trường Sơn, nhằm cắt đứt huyết mạch giao thông duy nhất nối liền hai miền Nam- Bắc. Hình ảnh những chiếc xe không kính xuyên suốt bài thơ. Và còn được hiện lên cụ thể hơn, trần trụi hơn, sự hỏng hóc của nó không thể tả xiết: Không có kính rồi xe không có đèn Không có mui xe thùng xe có xước Vẫn là phép điệp ngữ quen thuộc lặp từ “không có”, kết hợp với phép liệt kê tăng cấp: “không có kính”, “không có đèn”, “không có mui”, “có xước” cho thấy sự hỏng hóc càng tăng theo cấp số nhân, đó là quy luật tất yếu của sự huỷ diệt mà đế quốc muốn đem tới Việt Nam. Tuy nhiên dường như càng ác liệt thì những chiếc xe càng hiên ngang, dũng cảm ra trận. Giọng điệu bình thản, lời thơ đậm chất văn xuôi, cái chất thực bề bộn, ngổn ngang của chiến trường đã tự nó phát sáng . Vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng làm cho những chiếc xe khôg kính trở nên độc đáo trong thơ Phạm Tiến Duật. Có thể thấy với vốn sống phong phú, cái nhìn tinh tế, tâm hồn thơ nhạy cảm, Phạm Tiến Duật đã chọn lọc được nhiều hình ảnh giàu sức biểu hiện nhất để sáng tạo nên hình tượng thơ độc đáo- những chiếc xe không kính băng mình ra mặt trận trên chiến trường đánh Mỹ. Đó là những hình ảnh vốn không lạ, không hiếm, nhưng cái hay , cái mới mẻ ở đây là “xe không kính”, có ý nghĩa thực chứ không mang ý nghĩa biểu tượng. Vì thế, đọc thơ Phạm Tiến Duật ta có cảm giác như đang đi thẳng vào giữa cuộc chiến, đến nơi nóng bỏng nhất, trọng điểm ác liệt nhất, gặp những con người quả cảm nhất. Bài thơ không chỉ hấp dẫn người đọc bằng hình tượng thơ độc đáo mà thông qua hình tượng độc đáo ấy nhà thơ đã làm nổi bật chân dung người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn năm xưa. Trước hết người đọc cảm phục tư thế ung dung, bình thản, hiên ngang, điềm tĩnh đến lạ kì của người lính lái xe qua hai câu thơ cuối khổ 1: Ung dung buồng lái ta ngồi Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
  40. Với giọng thơ bình thản, nhẹ nhàng, kết hợp từ láy tượng hình “ung dung” được đảo lên đầu câu thơ có tác dụng nhấn mạnh, gợi tư thế đàng hoàng, bình thản, chủ động của người lính lái xe. Ngồi trên ca bin những chiếc xe không kính là họ đã tự chọn làm mục tiêu nguy hiểm nhất, sẵn sàng dính bom đạn kẻ thù, vậy mà họ vẫn “ung dung”, nghĩa là không lo, không sợ, không run. Điệp từ “nhìn”, kết hợp phép liệt kê đã miêu tả sự quan sát thật cẩn thận, bình tĩnh của một tay lái làm chủ tuyến đường, làm chủ tình huống. Người lính lái xe “nhìn đất” để quan sát đường đi đầy gập ghềnh hiểm trở, “nhìn trời” để quan sát máy bay địch”, “nhìn thẳng” về phía trước gợi tư thế chủ động thẳng tiến ra chiến trường đầy gian khổ, hi sinh nhưng không hề run sợ mà vững vàng, tự tin. Theo mạch cảm xúc của bài thơ, người lính lái xe còn hiện lên với vẻ đẹp tâm hồn đáng mến, trẻ trung, lãng mạn, biến những khó khăn gian khổ thành sự hưởng thụ thú vị. Không còn kính, nghĩa là không còn giới hạn với nguy hiểm nhưng cũng chẳng còn khoảng cách với thiên nhiên. Thế nên: Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim Thấy sao trời và đột ngột cánh chim Như sa như ùa vào buồm lái Nhịp thơ nhanh dồn dập như gợi ra những bước tiến ào ào băng mình của đoàn xe vận tải. Vẫn là phép điệp ngữ quen thuộc qua động từ “nhìn thấy” như tạo một nút nhấn, nhấn mạnh tư thế chủ động mở ra những tầm nhìn bao quát của người lính lái xe. Trên những chiếc xe ấy, những người lính được tiếp xúc với đất trời, cỏ cây, chim thú. Xe bon bon với tốc độ nhanh, gió xoa dịu không khí nóng bỏng của chiến trường, gió mang bụi đến, rồi chúng dường như cùng thức, cùng hành quân ra trận với các anh. Thông thường gió làm mát lòng người ra trận, gió đánh thức nỗi nhớ quê hương. Nhưng trong bài thơ gió làm thần kinh những người lính lái xe căng lên , khiến “ mắt đắng” kệnh cộm vì bụi đường, vì mắt thức thâu đêm.Và trên con đường ra trận, người lính lái xe được tự do quan sát, thoải mái chiêm ngưỡng vẻ đẹp không gian chiến trường. Họ không chỉ “thấy gió vào xoa mắt đắng” mà còn “thấy con đường chạy thẳng vào tim”. Đó vừa là hình ảnh thực gợi tốc độ lao nhanh của đoàn xe trên đường đèo dốc đá núi, vừa mang ý nghĩa ẩn dụ biểu tượng cho con đường của lí tưởng, con đường của lòng yêu nước của những người lính lái xe Trường Sơn. Lời thơ còn giúp ta cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, trẻ trung của người lính lái xe qua hình ảnh so sánh độc đáo: “sao trời”, “cánh chim” “như sa, như ùa vào buồng lái”. Hình ảnh thơ gợi tả thiên nhiên như đồng hành cùng người chiến sĩ lái xe trên mọi nẻo đường ra trận. Có lẽ khoang lái trong xe không kính vốn là nơi nguy hiểm nhất nhưng đã trở thành một vũ trụ tí hon của các anh.Viết như
  41. thế há chẳng phải gợi được phong thái ung dung, tư thế hiên ngang, sự bình thản của người lính đó sao. Viết như vậy còn là sự khẳng định tình yêu thiên nhiên đấy chứ. Tất cả điều ấy được tạo bởi lí tưởng và ý chí cao đẹp của họ. Nhờ thế mà tình cảm của những người lính trở nên trong sáng, lãng mạn đến vô cùng. Trên con đường ra trận, người chiến sĩ lái xe phải đối mặt với bao nhiêu khó khăn, gian khổ, hiểm nguy song họ càng sáng ngời với tinh thần dũng cảm, bất chấp mội khó khăn, gian khổ để vượt lên tất cả. Điều ấy được thể hiện qua hai câu đầu của khổ 3, 4 : Không có kính, ừ thì có bụi Bụi phun tóc trắng như người già Không có kính ừ , thì ớt áo Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời Ta nhận ra ở lời thơ trên lặp cấu trúc câu “không có ừ thì ” được sử dụng khá sáng tạo phản ánh chân thực những khó khăn do thiên nhiên đem tới đồng thời nhấn mạnh những thử thách, những gian khổ của người lính lái xe. Vì không có kính nên trong những ngày nắng lửa, bụi Trường Sơn đã vào “xoa mắt đắng”, giờ đây lại “phun tóc trắng như người già”. Rồi mùa mưa đến, mưa Trường Sơn xối xả, không có kính chắn nên mưa “tuôn”, “xối” vào buồng lái khiến cho các anh ướt sũng “như ngoài trời”. Câu thơ với những hình ảnh so sánh “như người già”, “như ngoài trời”, kết hợp các động từ mạnh “phun”, “tuôn”, “xối” cùng lặp cấu trúc câu đã khẳng định rằng những người lính lái xe trên đường ra trận không hề có phương tiện thuận lợi mà chỉ có gian khổ, khó khăn chất chồng. Đó là chưa kể đến những trận mưa bom bão đạn, kẻ thù điên cuồng trải thảm chặn đường xe chạy, những người lính có thể hi sinh bất cứ lúc nào. Như thế với hai lời thơ đầu chia đều ở hai khổ 3 và 4 đã phần nào giúp người đọc hiểu được những khó khăn, gian khổ mà người lính lái xe phải trải qua. Hơn ai hết Phạm Tiến Duật đã có hơn tám năm gắn bó với tuyến đường Trường Sơn, từng rất nhiều lần ngồi trong khoang lái của chiếc xe không kính. Thế nên những cảm giác, ấn tượng của người lính lái xe đã được nhà thơ diễn tả một cách chân thực nhất. Trước muôn vàn những khó khăn, gian khổ như thế nhưng những người lính lái xe vẫn luôn lạc quan, sôi nổi, trẻ trung: Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.