Bộ đề phân tích văn bản môn Ngữ văn 9 ôn thi vào 10 có dàn ý

docx 290 trang Thu Mai 06/03/2023 3700
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bộ đề phân tích văn bản môn Ngữ văn 9 ôn thi vào 10 có dàn ý", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxbo_de_phan_tich_van_ban_mon_ngu_van_9_on_thi_vao_10_co_dan_y.docx

Nội dung text: Bộ đề phân tích văn bản môn Ngữ văn 9 ôn thi vào 10 có dàn ý

  1. NGƯỜI CON GÁI NAM XƯƠNG ( Nguyễn Dữ) Đề 1: Phân tích nhân vật của Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái của Nam Xương” của Nguyễn Dữ Dàn ý tham kháo 1, Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm Viết về người phụ nữ - Một đề tài không còn mới lạ trong văn học, ta có thể kể đến các tác giả như nổi tiếng như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm đây là những cây bút tiêu biểu cho mảng đề tài này. Bên cạnh đó Nguyễn Dữ cũng là một gương mặt tiêu biểu ngòi bút nhân văn của ông luôn hướng về người phụ nữ. Tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm đặc sắc của nhà văn Nguyễn Dữ. Qua câu chuyện, nhà văn đã xây dựng hình ảnh Vũ Nương với cuộc đời đầy bất hạnh, đau khổ. 2, Thân bài a. Khái quát chung - Hoàn cảnh ra đời - Tóm tắt Nhà văn Nguyễn Dữ là cây bút văn xuôi xuất sắc nhất của văn học thế kỷ XVI. Ông sống ở thời kỳ chế độ phong kiến bắt đầu bước vào giai đoạn suy vong, các cuộc chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến kéo dài liên miên gây đau khổ cho nhân dân. Vốn không đồng tình với chế độ phong kiến bất công, thối nát, ông đã thể hiện kín đáo tình cảm ấy của mình qua tác phẩm Truyền kì mạn lục gồm hai mươi truyện ngắn. Chuyện người con gái Nam Xương là một trong hai mươi truyện trên. b. Phân tích * Luận điểm 1: Vũ Nương là một người phụ nữ đẹp người, đẹp nết - Ngay từ đầu truyện Vũ Nương được giới thiệu là người phụ nữ đẹp người đẹp nết “tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. - Trong xã hội phong kiến, một người phụ nữ đẹp phải hội tụ đủ các yếu tố: “tam tòng, tứ đức”, “công, dung, ngôn, hạnh”. Trong đó, dung chính là vẻ bề ngoài của nàng mà Trương Sinh đã xin mẹ “đem 100 lạng vàng cưới về”. Chi tiết này đã tô đậm vẻ đẹp nhan sắc và phẩm chất của nàng. => Nhân vật Vũ Nương đã được tác giả khắc hoạ với những nét chân dung về người phụ nữ mang vẻ đẹp toàn vẹn nhất trong xã hội phong kiến. Song có thể hiểu thật chi tiết về Vũ Nương, chúng ta cần phải đặt nhân vật trong những hoàn cảnh và mối quan hệ khác nhau: Luận cứ 1: Trong mối quan hệ với chồng:Nàng là người vợ thủy chung, yêu thương chồng hết mực. * Trong cuộc sống vợ chồng bình thường: nàng hiểu chồng có tính “đa nghi”, “phòng ngừa quá mức” nên Vũ Nương đã khéo léo cư xử đúng mực, nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép nên không lúc nào vợ chồng thất hòa. => Nàng là người phụ nữ hiểu chồng, biết mình, người phụ nữ đức hạnh. Qua đây ta thấy đã hé lộ mâu thuẫn tính cách giữa hai người và đầy tính dự báo. * Khi xa chồng: - Vũ Nương là người vợ thủy chung yêu thương chồng hết mực. Nỗi nhớ chồng cứ đi cùng năm tháng: “mỗi khi bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi”, nàng lại “thổn thức tâm tình, buồn thương da diết”.
  2. - Nàng mơ về một tương lai gần sẽ lại bên chồng như hình với bóng: Dỗ con, nàng chỉ cái bóng của mình trên vách mà rằng cha Đản. - Tiết hạnh ấy được khẳng định trong câu nói thanh minh, phân trần sau này của nàng với chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót”. => Qua tâm trạng bâng khuâng, nhớ thương, đau buồn của Vũ Nương, Nguyễn Dữ vừa cảm thông vừa ca ngợi tấm lòng son sắc, thủy chung của nàng. Và nỗi nhớ ấy, tâm trạng ấy cũng chính là tâm trạng chung của những người phụ nữ trong thời loạn lạc, chiến tranh. * Khi bị chồng nghi oan: - Nàng hết sức phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng trinh bạch của mình: + Trước hết, nàng nhắc đến thân phận của mình để có được tình nghĩa vợ chồng: “Thiếp con kẻ khó được nâng tựa nhà giau” + Thiếp theo, nàng khẳng định tấm lòng thủy chung, trong trắng, vẹn nguyên chờ chồng: “Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”. + Cuối cùng, nàng cầu xin chồng đừng nghi oan : “Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp” => Nàng đã hết lời tha thiết, hết lòng nhún nhường để cứu vãn, hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ bị tan vỡ. Qua những lời nói thiết tha đó, nó còn cho ta thấy thái độ trân trọng chồng và gia đình nhà chồng của nàng. - Khi không còn hi vọng, nàng nói trong đau đớn và thất vọng: + Hạnh phúc gia đình, “thú vui nghi gia, nghi thất” là niềm khát khao và tôn thờ cả đời giờ đã tan vỡ. + Tình yêu giờ đây của nàng được cụ thể bằng những hình ảnh ước lệ: “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió.” + Đến nỗi đau chờ chồng dến hóa đá của “cổ nhân” nàng cũng không có được: “đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. => Vậy là tình yêu, hạnh phúc gia đình vốn là cơ sở tồn tại của người vợ trẻ giờ đã không còn có ý nghĩa. - Cuối cùng, bị cự tuyệt quyền yêu, quyền hạnh phúc cũng đồng nghĩa với việc nàng bị cự tuyệt quyền tồn tại. Nàng tìm đến cái chết sau mọi sự cố gắng không thành. => Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo vệ phẩm giá. Đối với người con gái đức hạnh và giàu đức hi sinh, phẩm giá còn cao hơn sự sống. * Những năm tháng sống dưới thủy cung - Ở chốn làn mây, cung nước nhưng nàng vẫn một lòng hướng về chồng con, quê hương và khao khát được đoàn tụ. + Nàng nhận ra Phan Lang người cùng làng. + Nghe Phan lang kể về chuyện gia đình mà ứa nước mắt xót thương. - Nàng khao khát được trả lại phẩm giá, danh dự: Gửi chiếc thoa vàng, nhờ Phan Lang nói với TS lập đàn giải oan cho mình. - Nàng là người trọng tình, trong nghĩa: Dù thương nhớ chồng con, khao khát được đoàn tụ nhưng vẫn quyết giữ lời hứa sống chết bên Linh Phi. => Với vai trò là một người vợ, VN là một người phụ nữ chung thủy, mẫu mực, lí tưởng trong xã hội phong kiến. Trong trái tim của người phụ nữ ấy chỉ có tình yêu, lòng bao dung và sự vị tha. Luận cứ 2: Trong mối quan hệ với mẹ chồng: Nàng là người con dâu hiếu thảo.
  3. - Vũ Nương đã thay TS làm tròn bổn phận người con, người trụ cột đối với gia đình nhà chồng: Chăm sóc mẹ chồng khi già yếu, ốm đau. “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khuyên lơn”. - Mẹ chồng mất, nàng hết lòng thương xót, lo liệu ma chay chu đáo đối với cha mẹ đẻ mình. - Lời trăn trối của bà mẹ chồng trước khi mất đã khẳng định lòng hiếu thảo, tình cảm chân thành và công lao to lớn của Vũ Nương: “Xanh kia quyết chẳng phụ nàng cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Luận cứ 3: Trong mối quan hệ với con: Nàng là người mẹ yêu thương con hết mực. - Thiếu vắng chồng, nàng vẫn một mình sinh con, và nuôi dạy con khôn lớn. - Không chỉ trong vai trò là một mình sinh con, và nuôi dạy con khôn lớn. Không chỉ trong vai trò là một người mẹ, nàng còn đóng vai trò là một người cha hết lòng yêu thương con, không để con phải thiếu thốn tình cảm. - Nàng còn là một người mẹ tâm lí, không chỉ chăm lo cho con về vật chất, mà còn lo cho con cả về mặt tinh thần: Bé Đản sinh ra chưa biết mặt cha, lo con thiếu thốn tình cảm của cha nên chỉ vào cái bóng của mình trên vách mà bảo cha Đản. Hơn hết, nàng sớm định hình cho con về một mái ấm, một gia đình hoàn chỉnh. => VN không chỉ hoàn thành tốt trách nhiệm của một người vợ, người con, người mẹ, người cha mà còn là một người trụ cột của gia đình. Nàng xứng đáng được hưởng những gì hạnh phúc, tuyệt vời nhất. Thế nhưng trớ trêu thay hạnh phúc đã không mỉm cười với nàng. * Luận điểm 2: Vũ Nương là một người phụ nữ có số phận oan nghiệt. - Số phận bi kịch: + Chồng đi lính trở về - nghe con - một mực nghi oan - đánh đuổi đi + Hết lời thanh minh, bày tỏ nỗi lòng qua lời than => tự vẫn. -Cái chết của nàng: + Tắm gội chay sạch + Than => Hành động có suy tính => Phản kháng chế độ phong kiến nam quyền bất công - Nguyên nhân: + Trực tiếp: lời nói ngây thơ của bé Đản + Gián tiếp: - TS đa nghi, hay ghen, gia trưởng, thô bạo, thiếu niềm tin và tôn trọng phụ nữ - Hôn nhân không bình đẳng: sự rẻ rúng của con nhà hào phú với con nhà kẻ khó - XHPK hà khắc, trinh tiết hơn mạng sống - Chiến tranh phi nghĩa - Kết thúc: Chi tiết kì ảo - vũ nương trở về - tạ từ - biến mất: hoàn thiện vẻ đẹp VN, nhưng không giảm đi tính bi kịch. - Thân phận của Vũ Nương cũng là thân phận của biết bao người phụ nữ trong xã hội xưa: “Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” c. Đánh giá nghệ thuật - Nhân vật VN được đặt vào nhiều tình huống, từ đó, thể hiện số phận bất hạnh và những phẩm chất tốt đẹp của nhân vật. - Chi tiết chọn lọc, ngôn ngữ đối thoại và tự bạch phù hợp, yếu tố hoang đường, kì ảo mang đặc trưng của thể loại truyền kì và thể hiện ước vọng của nhân dân về kết thức có hậu cho số phận nhân vật. 3. Kết bài:
  4. - Khái quát lại vấn đề nghị luận - Cảm xúc của bản thân Đề 2: Phân tích giá trị của chiếc bóng trong Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ 1 Mở bài - Giới thiệu tác giả, tác phẩm “ Người con gái Nam Xương” ( Giống đề 1) - Đọc tác phẩm này người đọc không chỉ ấn tượng với Truyện ngắn của Nguyễn Dữ khi sử dụng các chi tiết hoang đường, kỳ ảo mà còn thực sự ấn tượng với chi tiết cái bóng, chi tiết này ẩn chứa những ý nghĩa văn chương sâu sắc. 2. Thần bài Trong tác phẩm tự sự chi tiết là một yếu tố vô cùng quan trọng, chi tiết chiếc bóng cùng với những chi tiết khác tạo nên sự hấp dẫn của “Chuyện Người con gái Nam Xương” Trong tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương”, Chi tiết cái bóng xuất hiện 2 lần đó là chiếc bóng của Vũ Nương trên tường vào ban đêm do bé Đản nhớ lại kể chuyện với Trương Sinh, chiếc bóng đó xuất hiện thường xuyên vào ban đêm trong thời gian Trương Sinh đi lính, chiếc bóng xuất hiện lần thứ hai là chiếc bóng của Trương Sinh trên tường xuất hiện vào ban đêm sau khi Vũ Nương đã mất. Trong suy nghĩ của bé Đản chiếc bóng trên tường ở cả hai hoàn cảnh trên đều là cha của nó. + Giá trị của chiếc bóng: Ở cả hai hoàn cảnh xuất hiện chi tiết cái bóng đều có ý nghĩa cả về nghệ thuật và nội dung. Ở lần xuất hiện thứ nhất cái bóng xuất hiện là cái bóng của Vũ Nương, chiếc bóng xuất hiện lần này qua lời kể ngày thơ của bé Đản là có giá trị đặc sắc về nghệ thuật gió thổi bùng lên cơn ghen trong lòng anh chàng Trương sinh khiến anh ta đã bao lần khiens Trương Sinh vốn đa nghi liền tin ngay Vũ Nương thất tiết, khiến Vũ Nương phải đối mặt với một nỗi oan tày trời, không thể thanh minh trước cơn ghen của Trương Sinh, cuối cùng trong nỗi đau tuyệt vọng nàng phải chọn cái chết để giải thoát. Nỗi đau về cả thể xác, lẫn tinh thần. Bên cạnh giá trị về nghệ thuật chi tiết chiếc bóng xuất hiện lần thứ nhất còn có những giá trị nội dung rất lớn việc Vũ Nương chỉ bóng mình trên tường và nói với bé Đản đó là cha của nó. đã cho người đọc hiểu được tình yêu thương của nàng bằng hành động này nàng không muốn đứa con nhỏ của mình bị tổn thương về mặt tinh thần, muốn cho con hiểu rằng nó vẫn đang được lớn lên trong hoàn trong gia đình có cả cha lẫn mẹ. Việc coi bóng mình trên tường là Trương Sinh, còn cho ta thấy Vũ Nương là một người vợ có tình yêu thương chồng tha thiết, chiến tranh chỉ có thể khiến nàng xa chồng về không gian, thời gian chứ không thể chia cắt về tình nghĩa vợ chồng vô tình mà bền chặt, nếu nàng là hình thì Trương Sinh là bóng, bóng và hình luôn quấn quýt bên nhau không thể tách. Việc sử dụng chi tiết cái bóng xuất hiện trong lời kể của bé Đản còn nhằm tố cáo chiến tranh phi nghĩa, bất chính. Cuộc chiến tranh này đã khiến cho bao người phụ nữ phải chịu nỗi khổ của người chinh phu xa chồng, lo lắng cho sự nguy nan của chồng, một mình gánh vác mọi công việc trong gia đình và luôn phải sống trong trông chờ, khao khát. -Việc Vũ Nương coi cái bóng mình trên tường là chồng còn phản ánh một niềm hi vọng, niềm khao khát chính đáng của người chinh phụ nữ đó là khát vọng đoàn tụ. Điều này giúp ta hiểu Nguyễn Dữ đã thấu hiểu thật sâu sắc nỗi lòng của người phụ nữ khi có chồng đi đánh trận. Mặt khác chi tiết chiếc bóng xuất hiện lần thứ nhất còn nhằm gửi gắm tâm sự của Nguyễn Dữ trong xã hội phong kiến xưa ẩn khuất quanh người phụ nữ, đặc biệt là những người phụ nữ bình dân và có thể ập xuống cuộc đời họ bất cứ lúc nào mà họ không thể lường trước được. Ngoài những ý nghĩa nói trên chi tiết chiếc bóng xuất hiện lần thứ nhất còn thể hiện tình cảm ngây thơ hồn nhiên của bé Đản một đứa trẻ luôn tin lời người mẹ của mình.
  5. + Nỗi oan của Vũ Nương xoay quanh chi tiết cái bóng lần thứ nhất (một tình huống vì chồng nghi oan là thất tiết) cho ta liên tưởng tới nỗi oan của nhân vật chị kính trong vở chèo “Quan Âm Thị Kính”. Họ là những người phụ nữ thật đáng thương, không có cơ hội thanh minh mỗi khi đối mặt với nỗi oan, Sau khi Vũ Nương tự vẫn Trương Sinh bé Đản sống lặng lẽ, vào một đêm khuya bên ngọn đèn dầu bé Đản trỏ bóng Trương Sinh trên tường và nói “cha Đản lại đến kia kìa” Trương Sinh nhìn theo hướng chỉ của bé Đản và lúc mấy giờ anh anh mới hiểu ra nỗi oan của vợ. Thì ra người cha trước kia thường đến vào ban đêm, luôn kè kè bên cạnh Vũ Nương chính là cái bóng của nàng trên tường cũng giống như người cha trong suy nghĩ của bé Đản bây giờ là cái bóng của Trương Sinh trên tường mà thôi, + Cũng giống như chiếc bóng xuất hiện lần thứ nhất chiếc bóng lần này có ý nghĩa sâu sắc về nội dung và nghệ thuật + Về nghệ thuật: Chiếc bóng lần này có ý nghĩa mở nút câu chuyện, nó giúp Trương Sinh hiểu ra nỗi oan của vợ giúp cho sự tức tối, hờn ghen vẫn luôn đọngj lại trong tâm trí, trái tim của anh ta bỗng tan biến. Lúc này anh ta hiểu rất rõ về người cha trước kia của bé Đản “Tại sao chỉ đến vào ban đêm, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bé Đản cả” lúc này anh ta cũng hiểu người vợ xinh đẹp của mình lại hết lời thanh minh trong nước mắt như vậy. Chiếc bóng lần này thực sự đã giải oan cho Vũ Nương và chắc chắn khiến cho linh hồn của Vũ Nương được thanh thản. +Về nội dung: Chi tiết chiếc bóng xuất hiện lần thứ hai giúp người đọc hiểu được tình cảm ngây thơ hồn nhiên của bé Đản, mặt khác chiếc bóng lần này giúp Vũ Nương giải oan nhưng lại giúp người đọc nhận ra một thực tế phũ phàng rằng những người phụ nữ bình dân Việt Nam trong xã hội xưa ra khi mắc oan sẽ khó có cơ hội được giải oan cho mình vì thân phận và tiếng nói của họ đâu có được. Và nếu có cơ hội may mắn được giải oan thì chỉ rơi vào tình cảnh “Cởi được vạ thì má đã xưng”. =>Đánh giá: Có thể khẳng định chi tiết chiếc bóng là một trong những yếu tố nghệ thuật đặc sắc góp phần tạo nên giá trị của tác phẩm. “Chuyện người con gái Nam Xương”. Việc sử dụng chi tiết chiếc bóng vừa thể hiện tài năng, nghệ thuật, vừa thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả của nhà văn Nguyễn Dữ. 3. Kết bài - Khẳng định sự đóng góp của tác giả - Khẳng định giá trị của tác phẩm - Khẳng định lại chi tiết của chiếc bóng Có thể thấy “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một tác phẩm xuất sắc. Và chi tiết “cái bóng” là một trong những yếu tố góp phần làm nên điều ấy.Quả đúng là “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Chi tiết cái bóng đã góp phần thể hiện được tư tưởng của nhà văn Nguyễn Dữ . Một tư tưởng chưa đựng những giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Đề 3: Cảm nhận về số phận bi kịch của nhân vật Vũ Nương 1. Mở bài Nguyễn Dữ là nhà văn tiêu biểu của bền văn học trung đại Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục”. “Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc 16/20 tập truyện. Tác giả Nguyễn Dữ đã rất thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương. Thông qua cuộc đời và số phận đầy bi kịch, khổ đau của nhân vật Vũ Nương tác giả đã phơi bày bộ mặt xấu xa, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên số phận con người. Đặc biệt là thân phận người phụ nữ.
  6. 2. Thần bài - Nêu vài nét về tác giả, tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” được xây dựng dưạ trên một câu chuyện có thật là “Vợ chàng Trương” vốn được lưu truyền trong dân gian. Trên cơ sở một câu chuyện cổ tích, Nguyễn Dữ đã có những hư cấu và sáng tạo tình tiết kì ảo để “Chuyện người con gái Nam Xương” trở thành một áng văn hấp dẫn, đặc sắc, giàu giá trị nhân văn. “Chuyện người con gái Nam Xương” xoay quanh về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương . Đọc tác phẩm người đọc nhận thấy Vũ Nương là một người phụ nữ hội tụ những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam, một người vợ chung thủy, một người mẹ yêu con, một người con dâu hiếu Lẽ ra nàng xứng đáng được hưởng một cuộc sống yên bình, hạnh phúc. Thế nhưng nàng phải chịu một cuộc đời bất hạnh, khổ đau. 1. Luận điểm 1: Trước hết Vũ Nương phải chịu số phận bất hạnh khổ đau vì là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Cuộc sum vầy của nàng với Trương Sinh chưa được bao lâu thì chiến tranh xảy ra. Trương Sinh tuy con nhà hào phú nhưng vì ít học phải đi lính ngay từ đợt đầu. Khi Trương Sinh đi lính nàng đang có mang, Trương Sinh đi chưa đầy một tuần nàng sinh con, mọi công việc nàng gánh vác trong gia đình, từ chăm sóc con thơ, phụng dưỡng mẹ già, ngày tháng dần trôi 1 năm, 2 năm, 3 năm nàng luôn sống trong tâm trạng chờ mong khắc khoải lo lắng cho sự an nguy của chồng nơi chiến trận. Nỗi nhớ thương khắc khoải với người chồng nơi biên ải cứ dâng tràn theo thời gian: “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào không ngăn được”. Hình ảnh” bướm lượn” có thể thấy những lúc vui, hay những lúc buồn Vũ Nương cũng đều cồn cào nỗi nhớ thương chồng.Để an ủi lòng mình đêm đêm Vũ Nương chỉ cái bóng của mình là Trương Sinh. Suy nghĩ này giúp người đọc hiểu được niềm khao khát được đoàn tụ của Trương Sinh với Vũ Nương lớn biết chừng nào. Sau 3 năm dài đằng đẵng chàng Trương Sinh của nàng đã may mắn bình an trở v, tưởng rằng gia đình nhỏ sẽ đầy ắp tiếng cười của ngày đoàn viên, tưởng rằng những vất vả mà nàng đã trải qua trong những năm tháng Trương Sinh đi lính sẽ được bù đắp, thế nhưng sau những giây phút buồn vui ngắn ngủi một bi kịch này trời đã giáng suốt cuộc đời Vũ Nương nàng bị nghi ngờ thất tiết. Chiến tranh đã chia lìa nàng và chồng để mỗi khi đứa con thơ hỏi nàng về cha của nó thì nàng đã chỉ chiếc bóng của mình trên tường nói là cha Đản. Bé Đản ngây thơ tin lời nàng nói, nên đã không công nhận Trương Sinh là cha và ngây thơ kể với Trương Sinh rất rành rọt về người cha trước kia của mình, “ Thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả”, nghe lời con, tin lời con trẻ mà cơn ghen tuông bùng lên trong lòng anh ta. Nếu không có chiến tranh thì Vũ Nương đâu phải xa chồng thì bé Đản đâu phải xa cha, không có chiến tranh thì gia đình nhỏ bé của Vũ Nương đâu phải đối diện với nghịch cảnh, chiếc bóng oan khuất. Từ nỗi khổ vì chiến tranh của Vũ Nương và sự hi sinh của cha ông ta trong các cuộc chiến tranh bảo vệ sau này, người đọc nhận thấy chiến tranh muôn đời là hành động phi lý, hành động tội ác của những kẻ hiếu chiến. Luận điểm 2: Vũ Nương không chỉ khổ đau bất hạnh vì nàng là nạn nhân của chiến tranh phong kiến mà làm còn khổ hơn vì là nạn nhân của tư tưởng Nam quyền. - Cuộc hôn nhân của Vũ Nương không bắt đầu từ tình yêu đôi lứa, mà mang tình cảm gả bán, bởi vì Trương Sinh là người trong làng nhận thấy Vũ Nương là một người con gái thùy mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp, anh ta đã xin mẹ 100 lạng vàng cưới nàng. Trương Sinh là con nhà hào phú còn Vũ Nương là con nhà nghèo sự khác biệt về đẳng cấp đã khiến cho Vũ Nương luôn mặc cảm
  7. với thân phận của mình, còn Trương Sinh coi gia cảnh của mình để có thể có những đặc quyền với vợ. - Ngay từ khi mới về nhà chồng Vũ Nương đã phải đối mặt với sự đa nghi, phòng ngừa quá của Trương Sinh, biết phận mình nên nàng luôn nhường nhịn, giữ gìn khuôn phép để gia đình không thất hòa xảy ra. - Nếu chiến tranh xảy ra, Vũ Nương khổ nỗi khổ của người chinh phụ, thì khi Trương Sinh trở về nàng phải chịu nỗi khổ của tư tưởng nho giáo phong kiến, chế độ phong kiến nam quyền, khi Trương Sinh nghe lời bé Đản nói về “người cha” của mình thì Trương Sinh đã nghi ngay vợ mình thất tiết. Vũ Nương đã phải đón nhận cơn ghen từ chồng, gặp lại Vũ Nương sau khi ra mộ mẹ Trương Sinh la lên cho hả giận, Vũ Nương đã thanh minh trong nước mắt “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu, sum họp chưa thỏa tình chăn gối,chia phôi vì động việc lửa binh” , những lời phân trần của nàng thấu tình đạt lí, đâu có cởi bỏ được mối nghi ngờ trong đầu óc của Trương Sinh. và như là nói chồng chuyện tày trời kia ai nói những tương sinh độc đoán đa nghi hồ đồ không nói câu chuyện giữa anh ta và bé Đạt Nếu anh ta vừa có thể mắng nhiếc vừa có thể nói về một người đàn ông xuất hiện vào ban đêm trong thời gian anh ta đi lính thì Vũ Nương đã phải có thể tải oan cho mình đối với Vũ Nương nỗi khổ do chiến tranh gây ra Chẳng thấm vào đâu so với nỗi khổ khi chồng bị nghi oan ở thất thiết bị đánh đuổi đi trước nỗi oan tày trời.Khổ nhục này nàng đã bày tỏ nỗi tuyệt vọng đau đớn của mình thiếp Sở dĩ được nương tựa vào chàng thì có thú vui ra nghi thức này đã bị rơi trong giấy Xem sự thất vọng đau đớn của nàng cũng chẳng làm lung lay ý chí mù quáng của Trương Sinh. - Bà con hang xóm biện bạch giúp nàng nhưng Trương Sinh cũng chẳng tin. Nàng đã trực tiếp nói chuyện tày đình kia ai nói, nhưng Trương Sinh độc đoán, đa nghi, hồ đồ không nói câu chuyện giữa anh ta và bé Đản. Nếu anh ta vừa có thể mắng nhiếc, vừa có thể nói rằng có một người luôn xuất hiện vào ban đêm trong thời gian anh ta đi lính thì Vũ Nương có thể giải oan cho mình. Đối với Vũ Nương nỗi khổ do chiến tranh cũng chả thấm vào đâu so với nỗi khổ bị chồng nghi oan là thất tiết và bị đánh đuổi đi.Trước nỗi oan tày trời, trước nỗi khổ nhục này nàng đã bày tỏ nỗi tuyệt vọng đau đớn của mình. “ Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng, vì có cái thú vui nghi gia, nghi thất. Nay đã bình rơi tram gẫy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bong hoa rụng cuống, kêu xuân cánh én lìa cành ” Không chỉ bị chồng mắng nhiếc, mà còn bị chồng đánh và đuổi đi Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết bên bến Hoàng Giang để giải thoát cuộc đời đau khổ của mình, suy cho cùng cái chết của Vũ Nương là do Trương Sinh bức tử Vũ Nương là nạn nhân của thói hồ đồ, đa nghi, độc đoán, vũ phu. Luận điểm 3: Mở rộng nâng cao Số phận bất hạnh của Vũ Nương trong tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương” tiêu biểu cho số phận của những người phụ nữ bình dân trong xã hội phong kiến, họ đâu có quyền quyết định số phận của cuộc đời của mình, cuộc đời họ sướng hay khổ, hạnh phúc hay đau khổ đều hoàn toàn phụ thuộc vào cách cư xử của người chồng, số phận của Vũ Nương cho ta hiểu và liên tưởng tới số phận khổ đau của Thúy Kiều trong kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Nếu Vũ Nương khổ vì chiến tranh phong kiến, vì tư tưởng bất công nam quyền, thì Thúy Kiều khổ vì nàng là nạn nhân của các thế lực bạo tàn, khổ vì sức mạnh ma quái của đồng tiền. Ngày nay chúng ta đang sống trong xã hội văn minh công bằng người phụ nữ được hưởng quyền bình đẳng so với nam giới, họ được quyền hưởng cuộc sống hạnh phúc gia đình do mình có công vun đắp lên. Tuy nhiên đâu đó vẫn còn không ít những người phụ nữ phải chịu hậu quả của những tàn dư của xã hội phong kiến, họ của nạn nhân của nạn nhân của thói vũ phu
  8. từ người chồng, là nạn nhân của hành động buôn người chúng ta cần phải lên án bênh vực bảo vệ những người phụ nữ đó. 3. Kết bài Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật Vũ Nương là hiện thân của tấm lòng vị tha, của vẻ đẹp của người phụ nữ. Song cuộc đời nàng lại có quá nhiều nỗi đớn đau, bất hạnh. Ngòi bút của Nguyễn Dữ đã hướng đến thể hiện và trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp ấy và bày tỏ sự cảm thông sâu sắc đối với nỗi đau khổ và ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp cho những con người bình thường, có phẩm chất tốt đẹp. Thiên truyện còn là lời tố cáo mạnh mẽ chế độ phong kiến hà khắc, cửa quyền, nhẫn tâm đẩy con người vào bước đường cùng không lối thoát. Đề 4: Cảm nhận của em về vẻ đẹp nhân vật Vũ Nương qua đoạn trích sau: “ Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương mối tình muôn dặm quan san” ( Trích Chuyện người con gái Nam Xương – SGK Ngữ văn 9 tập 1) 1. Mở bài Nguyễn Dữ là nhà văn tiêu biểu của bền văn học trung đại Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục”. “Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc 16/20 tập truyện. Tác giả Nguyễn Dữ đã rất thành công khi xây dựng hình tượng nhân vật Vũ Nương. Đọc tác phẩm này người đọc rất ấn tượng với tình huống chi tiết truyện, nhất là phần đầu của truyện, người đọc sẽ cảm nhận được một cách rõ nét vẻ đẹp trong tâm hồn của nhân vật Vũ Nương – nhân vật chính của truyện. 2.Thân bài * Khái quát: Chuyện “ NCGNX” là một trong 20 truyện trích trong “ Truyền kì mạn lục” áng văn được người đời đánh giá là áng “ Thiên cổ tùy bút” – cây bút kì diệu truyền tới ngàn đời. Truyện được viết từ chuyện cổ tích “ Vợ chàng Trương” nhưng với ngòi bút tài năng của mình Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên “ Chuyện người con gái Nam Xương” rất riêng giàu giá trị và ý nghĩa. Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm đã làm nổi bật vẻ đẹp và số phận đau thương của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. * Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương qua đoạn trích a. Vũ Nương là người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh, khéo léo, tế nhị, biết nhún nhường. Điều đó được thể hiện trong lời giới thiệu của tác giả và trong chính cuộc sống của nàng với Trương Sinh. Mở đầu tác phẩm Nguyễn Dữ giới thiệu: “ Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Như vậy chỉ với một câu giới thiệu ngắn gọn Nguyễn Dữ đã khái quát một cách khái quát và đầy đủ và trọn vẹn về vẻ đẹp âm hồn Vũ Nương ở nàng hội tụ đầy đủ cả: công – dung - ngôn - hạnh. Và cũng bởi vì mến vì dung hạnh của nàng nên Trương Sinh đã xin mẹ trăm lạng vàng về cưới. Chi tiết này càng tô đậm cho vẻ đẹp của VN. Nhưng điều đó có nghĩa là ở ngay phần đầu của tác phẩm Nguyễn Dữ đã xây dựng giữa hai nhân vật này là một sự cách bức. Nếu như Vũ Nương xinh đẹp, nết na đức hạnh thì Trương Sinh lại có tính đa nghi. Trương Sinh lại có cái quyền của người đàn ông trong xã hội phong kiến nam quyền, có quyền của nhà giàu đã phải bỏ trăm lạng vàng để cưới vợ. Với sự cách bức lớn như thế thì hẳn là cuộc sống của Vũ Nương sẽ gặp nhiều khó khăn. Hơn thế nữa Trương Sinh với vợ lại luôn phòng ngừa quá sức nhưng “ Vũ Nương luôn giữ gìn khuôn phép không để vợ chồng xảy ra thất hòa”. Nếu không phải là người phụ nữ tế nhị khéo léo thì hẳn nàng sẽ không giữ được hòa khí trong gia đình như vậy. b. Không chỉ là người phu nữ xinh đẹp nết na, đức hạnh, Vũ Nương còn là một người vợ yêu chồng, một người mẹ yêu con và luôn khao khát hạnh phúc gia đình.
  9. Vẻ đẹp ấy của nàng được tác giả làm nổi bật khi Trương Sinh ra trận. Trương sinh và nàng cưới nhau chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải ra trận, vì Trương Sinh con nhà hào phú nhưng ít học nên phải ghi tên dầu đi lính. Lúc tiễn chồng ra trận Vũ Nương rót chén rượu đầy mà rằng: “ Chàng đi chuyến này . Cánh hồng bay bổng” => Rõ ràng là trong lời nói của Vũ Nương ta nhân ra tình cảm tha thiết mà nàng dành cho chồng. Nàng chỉ mong chồng trở về bình yên chứ ko cần công danh hienr hách. Nàng lo cho nỗi vất vả của chồng nơi chiến trận và dự cảm được nỗi cô đơn trong những ngày thiếu vắng chồng. Nàng khong một lời than vãn về những vất vả mà mình phải gánh vác. Những lời nói của Vũ Nương cảm động đến mức khiến cho những người xung quanh ai lấy đều ứa hai hàng lệ và có lẽ người đọc không khỏi động lòng. Rồi Trương Sinh đi ra trân, Vũ Nương ở nhà nhớ chồng da diết: “ Ngày qua tháng lại .ngăn được”. Bằng một vài hình ảnh ước lệ tượng trưng Nguyễn Dữ đã diễn tả nỗi nhớ triền miên, dai dẳng, ngày qua ngày, tháng qua tháng của Vũ Nương với người chồng nơi chiến trận của nàng. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương, đau buồn ấy, cũng là tâm trạng chung của những người chinh phu trong xã hội loan lạc xưa. “ Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong” ( Chinh phụ ngâm khúc) Thể hiện tâm trạng ấy Nguyễn Dữ càng cảm thông cho nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ chờ đợi chồng của nàng. * Liên hệ chị Dậu của Ngô Tất Tố: Tấm lòng, tình yêu thương chồng của Vũ Nương khiến ta nhớ đến chị Dậu trong tiểu thuyết “ Tắt đèn” của nhà văn Ngô Tất Tố. Dù chỉ là một người phụ nữ nông dân thấp cổ, bé họng nhưng chị đã liều mạng để bảo vệ chồng. Có thể nói rằng tấm lòng thủy chung son sắt, tình yêu thương dành cho chồng con chính là nét chung đẹp đẽ trong tâm hồn người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp ấy thật đáng trân trọng. * Đánh giá: - Nghê thuật xay dựng nhân vật - Dụng ý xây dựng nghệ thuật của nhà văn - Nêu cảm nhận của tác giả Như vậy bằng cách kể chuyện tự nhiên, chân thực, đoạn trích giúp ta cảm nhận được những nét đẹp trong tâm hồn Vũ Nương. Nàng hiện lên không chỉ là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh, khéo léo, tế nhị, biết nhún nhường, mà còn là một người vợ thủy chung hết mức. Xây dựng nhân vật này, Nguyễn Dữ muốn gửi vào đó lời ngợi ca, trân trọng đối với những người phụ nữ trong xã hội xưa. Và phải thực sự là một người luôn trân trọng và cảm thông với cuôc đời của họ, Nguyễn Dữ mới có thể viết một tác phẩm hay độc đáo đến như vậy. 3. Kết bài Đề 5: Cảm nhận về nhân vật Vũ Nương qua đoạn trích sau: “ Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng mà rằng: - Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thể là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ,
  10. lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trồng liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cảnh không bay bổng. Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Ngước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình muôn dặm quan san! Bấy giờ, nàng đương có mang, sau khi xa chồng vừa đẩy tuần thì sinh ra một đứa con trai, đặt tên là Đản. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được, bà mẹ cũng vì nhớ con mà dân sinh ổm. Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn, song bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối lại với nàng rằng: - Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. ( ) Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ Bà cụ nói xong thì mất, nàng hết lời thương xót, phàm việc và cay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình." Gợi ý: 1.Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận Tất cả mọi thứ trên thế gian này theo thời gian đều sẽ bị bào mòn, chỉ có duy nhất nghệ thuật còn lại mãi với thời gian. Có những tác phẩm dù trải qua bao nhiêu thế kỉ, qua sự thách thức của dòng đời, nó vẫn còn nguyên sức sống của mình. “Chuyện người con gái Nam Xương” là một tác phẩm như thế. Đọc tác phẩm này và nhất là phần đầu của tác phẩm, người đọc sẽ cảm nhận được một cách rõ nét vẻ đẹp tâm hồn của nhân vật Vũ Nương – nhân vật chính của truyện. Vẻ đẹp của nàng được hiện lên rõ nét khi nàng khi tiễn chồng ra trận và trong những ngày Trương Sinh không có ở nhà. 2. Thân bài a. Khái quát chung về tác phẩm - “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong số 20 truyện trích trong “Truyền kì mạn lục”, áng văn được người đời đánh giá là “thiên cổ kì bút”- cây bút kì diệu truyền tới ngàn đời. - - Truyện được viết từ cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, nhưng với ngòi bút tài năng của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên “Chuyện người con gái Nam Xương” rất riêng, giàu giá trị và ý nghĩa. - Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, tác phẩm đã làm nổi bật vẻ đẹp và số phận đau thương của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. b. Cảm nhận về nhân vật qua đoạn trích * Nói qua về VN ở phần đầu của tác phẩm. - Mở đầu tác phẩm, Nguyễn Dữ đã giới thiệu “Vũ Thị Thiết người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp”. Như vậy, chỉ với một câu nói ngắn gọn, Nguyễn Du đã khái quát một cách đầy đủ và trọn vẹn vẻ đẹp tâm hồn của Vũ Nương, nàng không chỉ đẹp về hình thức bên ngoài mà còn có một tâm hồn đẹp, ở nàng hội tụ đầy đủ cả công – dung – ngôn – hạnh. b. Không chỉ là một người phụ nữ xinh đẹp, nết na, đức hạnh , Vũ Nương còn là một người vợ yêu thồng, một người mẹ thương con và luôn khao khát hạnh phúc gia đình. Vẻ đẹp ấy của nàng được Nguyễn Du làm nổi bật khi Trương Sinh ra trận. - Trương Sinh và Vũ Nương cưới nhau chưa được bao lâu thì Trương Sinh phải ra trận bởi Trương Sinh tuy con nhà hào phú nhưng thất học nên phải đi lính vào buổi đầu. Lúc tiễn chồng ra trận, Vũ Nương đã rót chén rượu đầy mà rằng “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong
  11. được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng,cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.” =>Rõ ràng là trong lời nói của Vũ Nương ta nhận ra tình cảm tha thiêt mà nàng dành cho chồng. Nàng mong chồng trở về bình yên chứ không cần công danh hiển hách. Nàng lo cho nỗi vất vả của chồng nơi chiến trận và dự cảm cả nỗi cô đơn trong những ngày vắng bóng chồng. Nàng không một lời than vãn về những vất vả mà mình sẽ phải gánh vác. Những lời nói của Vũ Nương cảm động đến mức khiến cho những người xung quanh ai nấy đều ứa hai hàng lệ và có lẽ người đọc cũng không khỏi động lòng. - Rồi Trương Sinh ra trận ra trận, Vũ Nương ở nhà nhớ chồng da diết. Nguyễn Dữ cũng viết về nỗi nhớ ấy của nàng “Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Bằng một vài hình ảnh ước lệ tượng trưng, Nguyễn Du đã diễn tả trọn vẹn nỗi nhớ triền miên, dai dẳng, ngày qua ngày, tháng qua tháng của Vũ Nương với người chồng nơi chiến trận của nàng. Nàng vừa thương chồng, vừa nhớ chồng, vừa thương xót cho chính mình đêm ngày phải đối mặt với nỗi cô đơn vò võ. Tâm trạng nhớ thương đau buồn ấy của Vũ Nương cũng là tâm trạng chung của những người chinh phụ trong mọi thời loạn lạc xưa nay: " Nhớ chàng đằng đẵng đường lên bằng trời Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong " (Chinh phụ ngâm) Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng. - Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ, Vũ Nương ra sức cứu vãn, hàn gắn. Khi người chồng trút cơn ghen bóng gió lên đầu, Vũ Nương đã ra sức thanh minh, phân trần. Nàng đã viện đến cả thân phận và tấm lòng của mình để thuyết phục chồng "Thiếp vốn con kẻ khó , nay được nượng tựa nhà giàu , xum họp chưa thỏa tình chăn gối , chia phôi vì động việc lửa binh , cách biệt 3 năm giữ gìn một tiết , tô son điểm phấn chẳng đã nguôi lòng , ngõ liễu tường hoa chưa hề bến gót , đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói " Những lời nói nhún nhường tha thiết đó cho thấy thái độ trân trọng chồng, trân trọng gia đình nhà chồng, niềm tha thiết gìn giữ gia đình nhất mực của Vũ Nương. - Với con thơ nàng hết sức yêu thương, chăm chút. Sau khi xa chồng đầy tuần, nàng sinh bé Đản, một mình gánh vác cả giang sơn nhà chồng nhưng chưa khi nào nàng chểnh mảng việc con cái. Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ . Nàng muốn để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha, luôn cảm nhận được hình bóng của người cha bên cạnh. Tình yêu thương của nàng dành cho chồng, cho con chính là minh chứng của niềm khát khao hạnh phúc gia đình mà người phụ nữ dù ở thời nào cũng mong muốn có được. c. Cùng với tình yêu thương chồng con, Vũ Nương còn là một người con dâu hiếu thảo Xưa nay mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu rất phức tạp. Người xưa thường nói Trời mưa ướt lá dai bì/ Con mẹ, mẹ xót, xót gì con dâu! Thế nhưng Vũ Nương đã hóa giả được những định kiến ấy. Chồng xa nhà, nàng đã thay chồng phụng dưỡng mẹ chu đáo. Khi bà ốm nàng đã thuốc thang
  12. lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con. Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình. Cái tình ấy quả có thể cảm thấu cả trời đất cho nên trước lúc chết người mẹ già ấy đã trăng trối những lời yêu thương, động viên, trân trọng con dâu “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ". Những lời nói của bà cụ hơn hẳn ngàn vạn lời kể của nhà văn. Nó một lần nữa chứng minh rằng Vũ Nương là một người con dâu hiếu thảo. - Liên hệ: Thúy Kiều : Sự hiếu thảo của Vũ Nương với mẹ chồng khiến ta nhớ đến nhân vật Thúy Kiều trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du – một cô gái sẵ sang bán thân mình để cứu cha và em. Có thể nói rằng tấm lòng thủy chung hiếu thảo là nét phẩm chất chung của những người phụ nữ trong XHPK. Họ đáng để chúng ta trân trọng và yêu thương. d. Đánh giá - Đánh giá về nghệ thuật xây dựng nhân vật - Nhắc lại những nét phẩm chất của nhân vật - Dụng ý xây dựng nhân vật của nhà văn - Qua đó nêu cảm nhận về tác giả Như vậy, bằng cách kể chuyện tự nhiên, chân thực, đoạn trích đã giúp người đọc cảm nhận được những nét đẹp tâm hồn ở nhân vật Vũ Nương. Nàng hiện lên là một người vợ thủy chung, một người mẹ thương con và một người con dâu hiếu thảo. Xây dựng nhân vật này, Nguyễn Dữ muốn gửi vào đó lời ngợi ca, trân trọng đối với những người phụ nữ trong xã hội xưa. Và phải thực sự là một người luôn trân trọng và cảm thong với số phận và cuộc đời của họ, Nguyễn Dữ mới có được một tác phẩm độc đáo đến như vậy. Thật đáng trân trọng 3. Kết bài - Đánh giá chung - Nhận định chung về đoạn trích - Đoạn trích khơi gợi trong em những tình cảm gì? - Qua đoạn trích em rút ra được bài học gì? “Chuyện người con gái nam xương”là một áng văn hay thành công về mặt dựng truyện ,khắc hoạ nhân vật ,kết hợp tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn . Truyện đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta thêm cảm phục trước tài năng của nhà văn, thêm trân trọng, yêu mến những người phụ nữ trong XHPK. Từ một chiếc bóng oan khiên tác phẩm đã gợi ra biết bao điều chúng phải suy ngẫm về đạo vợ chồng,về cách hành xử trong cuộc sống, về nhân cách, về cuộc đời con người. Và có lẽ cũng chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc. Đề 6: Cảm nhận về vẻ đẹp của Vũ Nương ( CM: Vũ Nương mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. BÀI LÀM 1. Mở bài Nguyễn Dữ là nhà văn tiêu biểu của bền văn học trung đại Việt Nam. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyền kỳ mạn lục”. “Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc 16/20 tập truyện. Chuyện kể về nhân vật chính là Vũ Nương một người con gái đẹp người, đẹp nết có tư dung tốt đẹp mang vẻ đẹp truyền thống của người con gái Việt Nam. 2. Thân bài
  13. a. Trước hết là một người con gái thùy mị, nết na có tư dung tốt đẹp. Nhan sắc của nàng tươi thắm thoát toát lên vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu của người phụ nữ Việt Nam.Nàng có tính nhẫn nhịn, hiền lành, luôn luôn chăm luôn chăm lo hạnh phúc gia đình. Bởi vậy chàng Trương mới xin mẹ trăm lạng vàng cưới nàng làm vợ. b. Không những vậy Vũ Nương còn là người đảm đang tháo vát. Mọi công việc gia đình và những biến cố lớn đều xảy ra trong lúc Trương Sinh đi lính.Trương Sinh đi lính chưa đầy một tuần thì nàng sinh con,mọi công việc gia đình đều đổ dồn nên đôi vai nhỏ bé của nàng.Nàng một mình vừa chăm sóc mẹ già, vừa nuôi con nhỏ. Rồi mẹ Trương Sinh vì thương nhớ con ốm rồi qua đời. Mọi công việc gia đình nàng đều hoàn thành chu tất và trọn vẹn, được làng xóm ngợi khen, mẹ chồng khi nhận, con trai con mới khỏe mạnh. c. Bên cạnh đó cũng luôn còn là người con dâu hiếu thảo: Như chúng ta đã biết trong xã hội phong kiến. Mối quan hệ giữa mẹ chồng, nàng dâu là mối quan hệ rất phức tạp. Nhiều khi dẫn tới “cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”. Nhưng với Vũ Nương mối quan hệ với mẹ chồng lại rất tốt đẹp. Khi chồng đi lính Vũ Nương ở nhà thay chồng chăm sóc, phụng dưỡng mẹ chồng tận tình chu đáo. Khi mẹ chồng ốm Vũ Nương lo chạy chữa thuốc thang, lễ bái thần phật “lấy lời ngọt ngàokhôn khéo khuyên lơn” . Lời trăng trối của bà mẹ trước lúc mất đã đánh giá công lao của Vũ Nương đối với gia đình và cũng là lời ngợi khen con dâu “Trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ”. Trước lời người con dâu hiếu thảo như Vũ Nương thì mẹ Trương Sinh không thể không yêu mến và luôn mong cho cho con được hạnh phúc. Khi mẹ chồng mất Vũ Nương đã hết lời thương xót, phàm việc, ma chay, tế lễ lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình.Tất cả những cử chỉ, việc làm của Vũ Nương đã cho thấy nàng là một người con dâu hiếu thảo. d. Vũ Nương là người vợ chung thủy, hết lòng vun vén hạnh phúc gia đình. Khi mới về nhà chồng biết Trương Sinh có tính đa nghi, nên nàng hết sức giữ gìn khuôn phép. Dù chồng nàng có tính đa nghi “đối với vợ phòng vượt quá sức” nhưng nàng không để gia đình thất hòa.Khi tiễn chồng đi lính, Vũ Nương rót chén rượu đầy dặn dò: “ Chàng đi chuyến này thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên thế là đủ rồi”. Nàng chỉ lo cho tính mạng và sự bình yên bên mái ấm gia đình. Vũ Nương còn cảm thông cho những nổi gian lao, vất vả mà chồng đang phải chịu đựng “ Giặc cuồng còn lại lẻn lút, quân triều còn gian lao”. Nàng còn nói lên nỗi nhớ của mình “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình người đất thú”. Những lời nói của Vũ Nương khi tiễn chồng ra trận thật cảm động tình nghĩa, khiến mọi người phải ngứa hai hàng lệ, khi xa chồng nàng chung thủy một mình một bóng, nỗi nhớ chồng vò võ kéo dài theo năm tháng. “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy, vườn mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”. Nàng luôn thấy hình bóng chồng bên mình. Đêm đêm nàng vẫn đùa con trỏ bóng mình trên tường và nói là cha Đản. Khi bị chồng nghi oan nàng tìm mọi cách xóa bỏ ngờ vực trong lòng chồng, khẳng định tấm lòng thủy chung trong sáng của mình “Cách biệt 3năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngoc liễu tường hoa chưa hề bến gót”. Nàng cố gắng hàn gắn hạnh phúc gia đình đang có nguy cơ tan vỡ. Nàng còn nói lên mong ước của mình về một gia đình hạnh phúc. “Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia, nghi thất”. Mặc dù khi bị chồng nghi oan ruồng rẫy, đánh đuổi đi khiến Vũ Nương phải gieo mình xuống sông tự vẫn. Nhưng ở dưới thủy cung nàng vẫn ứa nước mắt khi Phan Lang nhắc đến chuyện Trương Sinh mong đợi và nhắc đến phần mộ, nhà cửa không ai chăm sóc và nàng vẫn mong có ngày được trở về nên đã gửi hoa vàng cùng lời nhắn cho Trương Sinh.
  14. 5. Vũ Nương là người mẹ yêu thương con hết mực. Nàng là người mẹ hiền hết lòng nuôi dưỡng, chăm sóc và bù đắp cho đứa con trai nhỏ có sự thiếu vắng tình cha bằng cách đêm đêm nàng chỉ bóng mình trên vách và nói đó là cha Đản. Chính cái bong oan nghiệt đã giết chết Vũ Nương. 6. Hơn thế nữa Vũ Nương còn là người trọng tình nghĩa, trọng danh dự, nhân phẩm Khi mới lấy chồng biết chồng có tính đa nghi lên nàng luôn luôn có ý thức giữ gìn, không để xảy ra điều tiếng thất hòa, khi chồng đi lính Vũ Nương vò võ đợi chồng điều này được hàng xóm và mẹ chồng ghi nhận. Khi bị chồng nghi oan, thanh minh không được nàng bèn gieo mình xuống sông tự vẫn, sẵn sàng dùng cái chết để tỏ lòng mình trinh bạch, để minh oan cho mình, để bảo vệ nhân phẩm của người phụ nữ. Lời than của nàng trước trời cao, song thẳm là lời nguyện xin thần sông chứng giám cho nỗi con khuất cũng như tấm lòng thủy chung, trong trắng của nàng “ Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu,chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần song có linh xin ngài chứng giám” . Vì muốn được phục hồi danh dự, muốn được giải oan nên Vũ Nương đã gửi Phan Lang chiếc hoa vàng cùng với lời nhắn Trương sinh lập dàn giải oan trên bến Hoàng Giang nàng sẽ trở về. Dù nhớ quê hương vẫn nặng lòng với chồng con nhưng Vũ Nương không trở về trần gian được nữa, mà chỉ về thấp thoáng giữa dòng nói vọng vào “Thiếp cảm ơn đức Linh Phi, đã thể sống chết không bỏ. Đa tạ tình chàng thiếp chẳng về trở về nhân gian được nữa”. Như vậy nhân vật Vũ Nương được tác giả khắc họa có nhiều nét mới lạ trong truyện trung đại. Những yếu tố kì ảo hoang đường và ngôn ngữ đối thoại biểu hiện cho tâm trạng khiến nhân vật hoàn thiện hơn và có sức cuốn hút riêng. Đặc biệt chi tiết chiếc bóng đã làm nổi bật hơn nhân phẩm của Vũ Nương. Vẻ đẹp của Vũ Nương là vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Dù trong bất kì hoàn cảnh nào cũng hiện lên với những người đẹp cao quý đáng trân trọng. 3. Kết bài “ Chuyện người con gái Nam Xương” Nguyễn Dữ đã hiện lên vẻ đẹp của Vũ Nương với những vẻ đẹp ngoại hình cũng như phẩm chất bên trong. Nguyễn Dữ đã hết lời ca ngợi vẻ đẹp đó của Vũ Nương. Càng trân trọng vẻ đẹp của Vũ Nương bao nhiêu, ta càng cảm thông cho số phận oan nghiệt, đắng cay của Vũ Nương qua nhân vật Vũ Nương người đọc cảm thấy tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Dữ. Đề 7: Số phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến thông qua nhân vật Vũ Nương trong tác phẩm “Chuyện người con gái Nam Xương” (*) 1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề nghị luận Người phụ nữ luôn là đề tài quen thuộc được hể hiện trong văn học thời trung đại. Viết về họ, Hồ Xuân Hương đã rất thành ông với bài thơ “Bánh trôi nước”, đại thi hào Nguyễn Du với kiệt tác “Truyện Kiều” và Nguyễn Dữ - học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm với “Chuyện người con gái Nam Xương” – thiên thứ 16 của “Truyền kì mạn lục”. Qua nhân vật Vũ Nương, câu chuyện đem đến bao suy tư, trăn trở cho người đọc về thân phận của người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công. 2. Thân bài: a. Khái quát ( Dẫn dắt vào bài): “Chuyện người con gái Nam Xương” xoay quanh về cuộc đời và số phận bi thảm của Vũ Nương – người con gái nhan sắc, đức hạnh. Nàng lấy chồng là Trương Sinh, con nhà hào phú nhưng ít học, có tính đa nghi và hay ghen. Cuộc sống gia đình đang êm ấm thì Trương Sinh phải đầu quân đi lính.Chàng đi đầy tuần,Vũ Nương sinh con trai, hết lòng nuôi dạy con, chăm sóc, lo ma chay cho mẹ già chu đáo và thủy chung đợi chồng. Đêm đêm, nàng thường trỏ bóng mình trên vách và nói với con đó là cha của bé. Giặc tan, Trương Sinh trở về, tin lời con nhỏ, nghi ngờ vợ thất tiết, nhục mạ, đánh đuổi nàng đi. Phẫn uất, Vũ Nương nhảy xuống sông Hoàng Giang tự
  15. vẫn. Qua câu chuyện kể, ta thấy người phụ nữ là nạn nhân của xã hội phong kiến bất công. Cuộc đời của họ là một chuỗi dài những khổ đau, bất hạnh. b. Số phận người phụ nữ *.Người phụ nữ là nạn nhân của chế độ nam quyền, bị gả bán cho một cuộc hôn nhân không tình yêu. - Cũng giống như số phận của bao người phụ nữ trong xã hội phong kiến, Vũ Nương đã phải chịu sự ràng buộc bởi những lễ giáo khắt khe, ngặt nghèo. Biết nàng “tính đã thùy mị nết na,lại thêm tư dung tốt đẹp” cho nên Trương Sinh mến vì dung hạnh nói với mẹ xin trăm lạng vàng cưới về. Đây là một cuộc hôn nhân không bình đẳng, bởi lẽ nó không phải là sự rung động của hai trái tim cùng một nhịp mà là do sự sắp đặt mang tính chất mua bán. Sự sắp đặt của con nhà giàu, lắm tiền nhiều của, muốn gì được nấy, sắp đặt cho con nhà khó “cha mẹ đặt đâu thì con phải ngồi đó”.Cuộc hôn nhân có sự cách bức giàu nghèo đã khiến Vũ Nương luôn luôn mặc cảm“thiếp vốn con kẻ khó được nương tựa nhà giàu”. Và dù Vũ Nương có luôn giữ gìn khuôn phép thì cuộc sống vợ chồng ấy vẫn tiềm ẩn nguy cơ tan vỡ và sau này cũng là cái thế để Trương Sinh độc đoán, gia trưởng, đối xử với vợ một cách vũ phu,thô bạo. - Trương Sinh vốn ít học, lại có tính đa nghi và hay ghen, do vậy sự nghi kị, ngờ vực làm mầm mống của sự bất hòa đã ủ sẵn trong gia đình. Để rồi, sau ba năm xa cách, khi trở về tưởng Trương Sinh sẽ mang lại hạnh phúc cho gia đình thì cũng lại là lúc tại họa ập xuống cuộc đời Vũ Nương. Chỉ vì lời nói ngây thơ của bé Đản: “Ô hay! Ông cũng là cha tôi ư? Mà ông lại biết nói chứ không giống như cha tôi trước kia ”, làm cho Trương Sinh ngờ vực, hiểu lầm vợ hư hỏng. Dù Vũ Nương có tha thiết giãi bày, có hết lời phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, dù họ hàng làng xóm có hết lòng khuyên can và biện hộ cho nàng thì Trương Sinh cũng không hề đếm xỉa tới,mà chỉ một mực nghi oan cho vợ. Rồi từ chỗ “la um lên cho hả giận”, Trương Sinh đã mắng nhiếc, đuổi vợ đi. Phải chăng, xã hội phong kiến với chế độ nam quyền độc đoán, với thói “trọng nam khinh nữ” bám chặt vào huyết quản đã dung túng,cho phép người đàn ông được quyền coi thường, rẻ rúng và đối xử thô bạo với người phụ nữ? + Thương nhớ chồng là thế, lại bị chồng ruồng rẫy, gạt bỏ. Giữ gìn khuôn phép, rất mực thủy chung lại bị coi là thất tiết, chịu tiếng nhuốc nhơ Nàng không hiểu vì sao bị đối xử bất công, bị mắng nhiếc và đuổi đi, không có quyền được tự bảo vệ ngay cả khi có họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho.Hạnh phúc gia đình, thú vui nghi gia nghi thất, niềm khao khát của cả đời nàng đã tan vỡ, tình yêu không còn “bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rủ trong ao, liễu tàn trước gió”, cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hóa đá trước đây,cũng không còn có thể có lại được nữa. + Thất vọng đến tột cùng, cuộc hôn nhân đã không có cách nào hàn gắn nổi, Vũ Nương đành mượn sông Hoàng Giang rửa sạch nỗi oan nhục, giãi bỏ tấm lòng trong trắng của mình. Lời than của nàng như lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và đức hạnh của nàng: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ nương, xuống đất xin làm cỏ ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". -> Qua tác phẩm,ta thấy Vũ Nương đã nhiều lần gắng gượng để vượt lên số phận nhưng cuộc đời nàng không thoát khỏi là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, chà đạp và ức hiếp con người. -> Cái chết của Vũ Nương thực chất là do bị chồng bức tử - một cái chết đầy oan ức. Vậy mà, Trương Sinh thấy nàng tự tận chỉ một chút động lòng mà không hề ân hận, day dứt. Ngay cả khi, đứa con trỏ tay vào bóng chàng trên vách nói là cha, chàng hiểu rõ nỗi oan của vợ thì cũng coi là
  16. việc đã qua rồi. Như thế, chuyện danh dự , chuyện sinh mệnh của người phụ nữ bị tùy tiện định đoạt bởi người chồng, người đàn ông mà không có hành lang đạo lí, không được dư luận xã hội bảo vệ, chở che. Nỗi oan của Vũ Nương đã vượt ra ngoài phạm vi gia đình, là một trong muôn vàn oan khuất của cái xã hội vùi dập thân phận con người, nhất là người phụ nữ. Sống trong xã hội đầy rẫy những oan trái, bất công, quyền sống của con người không được đảm bảo, người phụ nữ với thân phận “bèo dạt mây trôi” có thể gặp bao nhiêu tai họa giáng xuống bất kì lúc nào, vì những nguyên cớ vu vơ không thể tưởng tượng. Rõ ràng, xã hội phong kiến đã sinh ra bao Trương Sinh với đầu óc gia trưởng, độc đoán, là nguyên nhân sâu xa của những đau khổ mà người phụ nữ phải chịu. b. Người phụ nữ là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa: - Không chỉ là nạn nhân của chế độ nam quyền độc đoán, người phụ nữ còn là nạn nhân của chiến tranh phong kiến. Cả cuộc đời Vũ Nương, chỉ vui thú nghi gia nghi thất vậy mà về làm vợ Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng “sum họp chưa thỏa tình chăn gối,chia phôi vì động việc lửa binh”. Buổi Trương Sinh ra đi, mẹ già bịn rịn, vợ trẻ đương bụng mang dạ chửa, sự thể rồi sẽ ra sao đã khiến mọi người có mặt ở đó đều phải ứa hai hàng lệ: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ,chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao,rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài,mẹ già triền miên lo lắng.” => Những câu văn biền ngẫu, sóng đôi như trái tim người vợ trẻ phập phồng lo sợ cho người chồng phải đi lính thú. Chiến tranh xa cách, mẹ già cũng vì thương nhớ con mà sinh bệnh rồi qua đời. Con thơ được sinh ra không biết mặt cha, vợ trẻ nhớ chồng chỉ còn biết trỏ vào bóng mình trên vách, bảo là cha của bé Chính chiến tranh làm cho gia đình li tán, vợ chồng xa cách dẫn đến hiểu lầm. Cũng chính cái mối nghi ngờ không thể gỡ ra ấy của Trương Sinh đã trở thành nguyên nhân gây bất hạnh cho cuộc đời Vũ Nương. Nếu không có chiến tranh, Trương Sinh không bị bắt đi lính,thì đâu bé Đản không chịu nhận cha, thì đâu Vũ Nương phải chịu nỗi oan tày trời dẫn đến cái chết thương tâm. Rõ ràng, chiến tranh phong kiến đã gây ra cảnh sinh li và cũng góp phần dẫn đến cảnh tử biệt, làm tan nát bao nhiêu gia đình. *Liên hệ: Có thể nói,sống trong xã hội phong kiến bất công, Vũ Nương cũng như bao người phụ nữ khác – người con gái bình dân trong “Bánh trôi nước”, Thúy Kiều, Đạm Tiên trong “Truyện Kiều” đều phải sống long đong, trôi dạt, phải tìm đến cái chết giải nỗi oan ức, phải thoát khỏi cuộc đời đầy khổ đau ở chốn nhân gian. Đại thi hào Nguyễn Du đã khái quát về cuộc đời, thân phận người phụ nữ bằng tiếng kêu đầy ai oán: “ Đau đớn thay phận đàn bà Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. c. Đánh giá Như vậy, bằng cách kể chuyện tự nhiên, cảm động, các yếu tố kì ảo, hoang đường, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ đã làm nổi bật số phận bi thương, bất hạnh của Vũ Nương và cũng là của cả những người phụ nữ trong xã hội xưa. . Thông qua tác phẩm này ta nhận ra cái tâm và cái tài của tác giả, nhận ra sự cảm thương sâu sắc của nhà văn dành cho nhân vật của mình và cho cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến. 3. Kết bài: “Chuyện người con gái nam xương”là một áng văn hay thành công về mặt dựng truyện ,khắc hoạ nhân vật ,kết hợp tự sự và trữ tình, hiện thực và lãng mạn . Truyện đã khơi gợi trong lòng người đọc không ít những tình cảm đẹp. Nó khiến ta thêm cảm phục trước tài năng của nhà văn, thêm trân trọng, yêu mến những người phụ nữ trong XHPK. Từ một chiếc bóng oan khiên
  17. tác phẩm đã gợi ra biết bao điều chúng phải suy ngẫm về đạo vợ chồng,về cách hành xử trong cuộc sống, về nhân cách, về cuộc đời con người. Và có lẽ cũng chính vì thế mà sau bao thăng trầm của lịch sử, “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ vẫn còn mãi trong lòng bạn đọc. Đề 8: Giá trị nhân đạo trong “chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ I. Tìm hiểu đề - Đề yêu cầu phân tích một giá trị nội dung của tác phẩm – giá trị nhân đạo. Giá trị nhân đạo thể hiện trong tác phẩm văn chương còn gọi là giá trị nhân văn. - Văn học trung đại Việt Nam thường biểu hiện tiếng nói nhân văn ở sự trân trọng mọi phẩm giá con người, đồng tình thông cảm với khát vọng của con người, đồng cảm với số phận bi kịch của con người và lên án những thế lực bạo tàn chà đạp lên con người - Dựa vào những điều cơ bản trên,người viết soi chiếu và “Chuyện người con gái Nam Xương” để phân tích những biểu hiện cụ thể về nội dung nhân văn trong tác phẩm. Từ đó đánh giá những đóng góp của Nguyễn Dữ vào tiếng nói nhân văn của văn học thời đại ông. - Tuy cần dựa vào số phận bi thương của nhân vật Vũ Nương để khai thác vấn đề, nhưng nội dung bài viết phải rộng hơn bài phân tích nhân vật, do đó cách trình bày phân tích cũng khác. II. Dàn bài chi tiết A- Mở bài: - Từ thế kỉ XVI, xã hội phong kiến Việt Nam bắt đầu khủng hoảng, vấn đề số phận con người trở thành mối quan tâm của văn chương, tiếng nói nhân văn trong các tác phẩm văn chươngngày càng phát triển phong phú và sâu sắc. - “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ là một trong số đó. Trong 20 thiên truyện của tập truyền kì, “chuyện người con gái Nam Xương” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho cảm hứng nhân văn của Nguyễn Dữ. B- Thân bài: 1. Tác giả hết lời ca ngợi vẻ đẹp của con người qua vẻ đẹp của Vũ Nương, một phụ nữ bình dân - Vũ Nương là con nhà nghèo (“thiếp vốn con nhà khó”), đó là cái nhìn người khá đặc biệt của tư tưởng nhân văn Nguyễn Dữ. - Nàng có đầy đủ vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam: thuỳ mị, nết na. Đối với chồng rất mực dịu dàng, đằm thắm thuỷ chung; đối với mẹ chồng rất mực hiếu thảo, hết lòng phụ dưỡng; đói với con rất mực yêu thương. - Đặc biệt, một biểu hiện rõ nhất về cảm hứng nhân văn, nàng là nhân vật để tác giả thể hiện khát vọng về con người, về hạnh phúc gia đình, tình yêu đôi lứa: + Nàng luôn vun vén cho hạnh phúc gia đình. + Khi chia tay chồng đi lính, không mong chồng lập công hiển hách để được “ấn phong hầu”, nàng chỉ mong chồng bình yên trở về. + Lời thanh minh với chồng khi bị nghi oan cũg thể hiện rõ khát vọng đó: “Thiếp sở dĩ nương tựa và chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất” Tóm lại : dưới ánh sáng của tư tưởng nhân vănđã xuất hiện nhiều trong văn chương, Nguyễn Dữ mới có thể xây dựng một nhân vật phụ nữ bình dân mang đầy đủ vẻ đẹp của con người. Nhân văn là đại diện cho tiếng nói nhân văn của tác giả. 2. Nguyễn Dữ trân trọng vẻ đẹp của Vũ Nương bao nhiêu thì càng đau đớn trước bi kịch cuộc đời của nàng bấy nhiêu. - Đau đớn vì nàng có đầy đủ phẩm chất đáng quý và lòng tha thiết hạnh phúc gia đình, tận tuỵ vun đắp cho hạnh phúc đó lại chẳng được hưởng hạnh phúc cho xứng với sự hi sinh của nàng:
  18. + Chờ chồng đằng đẵng, chồng về chưa một ngày vui, sóng gió đã nổi lên từ một nguyên cớ rất vu vơ (Người chồng chỉ dựa vào câu nói ngây thơ của đứa trẻ đã khăng khăng kết tội vợ). + Nàng hết mực van xin chàng nói rõ mọi nguyên cớ để cởi tháo mọi nghi ngờ; hàng xóm rõ nỗi oan của nàng nên kêu xin giúp, tất cả đều vô ích. Đến cả lời than khóc xót xa tột cùng “Nay đã bình rơi trâm gãy, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, cái én lìa đàn, ” mà người chồng vẫn không động lòng. + Con người ttrong trắng bị xúc phạm nặng nề, bị dập vùi tàn nhẫn, bị đẩy đến cái chết oan khuất Bi kịch đời nàng là tấn bi kịch cho cái đẹp bị chà đạp nát tan, phũ phàng. 3. Nhưng với tấm lòng yêu thương con người, tác giả không để cho con người trong sáng cao đẹp như nàng đã chết oan khuất. - Mượn yếu tố kì ảo của thể loại truyền kì, diễn tả Vũ Nương trở về để được rửa sạch nỗi oan giữa thanh thiên bạch nhật, với vè đẹp còn lộng lẫy hơn xưa. - Nhưng Vũ Nương được tái tạo khác với các nàng tiên siêu thực : nàng vẫn khát vọng hạnh phúc trần thế (ngậm ngùi, tiếc nuối, chua xót khi nói lời vĩnh biệt “thiếp chẳng thể về với nhân gian được nữa”. - Hạnh phúc vẫn chỉ là ước mơ, hiện thực vẫn quá đau đớn (hạnh phúc gia đình tan vỡ, không gì hàn gắn được). 4. Với niềm xót thương sâu sắc đó, tác giả lên án những thế lkực tàn ác chà đạp lên khát vọng chính đáng của con người. - XHPK với những hủ tục phi lí (trọng nam khinh nữ, đạo tòng phu, ) gây bao nhiêu bất công. Hiện thân của nó là nhân vật Trương Sinh, người chồng ghen tuông mù quáng, vũ phu. - Thế lực đồg tiền bạc ác (Trương Sinh con nhà hào phú, một lúc bỏ ra 100 lạng vàng để cưới Vũ Nương). Thời này đạo lí đã suy vi, đồng tiền đã làm đen bạc tình nghĩa con người. Nguyễn Dữ tái tạo truyện cổ Vợ chàng Trương, cho nó mạng dáng dấp của thời đại ông, XHPKVN thế kỉ XVI. C- Kết bài: - “Chuyện người con gái Nam Xương” là một thiên truyền kì giàu tính nhân văn. Truyện tiêu biểu cho sáng tạo của Nguyễn Dữ về số phận đầy tính bi kịch của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. - Tác giả thấu hiểu nỗi đau thương của họ và có tài biểu hiện bi kịch đó khá sâu sắc. Đề 9: Phân tích ý nghĩa lời thoại của nhân vật Vũ Nương (*) 1. Mở bài Tác phẩm “ Chuyện người con gái Nam Xương” trích trong tập truyện “ Truyền kì mạn lục” của tác giả Nguyễn Dữ đã để lại trong lòng người đọc nhiều cảm xúc khó phai. Có lẽ cảm động nhất là những lời thoại chứa chan cảm xúc của Vũ Nương, đã lấy đi rất nhiều những giọt nước mắt cảm thông xót xa. 2. Thân bài a. Khái quát chung về tác phẩm - “Chuyện người con gái Nam Xương” là một trong số 20 truyện trích trong “Truyền kì mạn lục”, áng văn được người đời đánh giá là “thiên cổ kì bút”- cây bút kì diệu truyền tới ngàn đời. Truyện được viết từ cốt truyện cổ tích “Vợ chàng Trương”, nhưng với ngòi bút tài năng của mình, Nguyễn Dữ đã sáng tạo nên “Chuyện người con gái Nam Xương” rất riêng, giàu giá trị và ý nghĩa.
  19. Vũ Nương là đại diện cho vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến. Không như Nguyễn Du miêu tả thật tinh tế nét đẹp “nghiêng nước nghiêng thành” của Thúy Kiều. Vũ Nương được giới thiệu là người con gái đẹp người, đẹp nết có tư dung tốt đẹp, một người phụ nữ đảm đang tháo vát, yêu thương chồng con hết mực, một người con dâu hiếu thảo Vì là người cùng làng nhận thấy Vũ Nương có những phẩm chất tốt đẹp nên Trương Sinh đã xin mẹ 100 lạng vàng cưới Vũ Nương làm vợ, Trương Sinh vốn là người chồng đa nghi, ít học, khi binh đao loạn lạc. Trương Sinh phải ra trận. Khi tiễn chồng ra trận Vũ Nương dặn dò chồng khiến ai cũng phải ứa hai hang lệ phẩm qua những lời thoại chứa chan cảm xúc. a. Lời thoại 1: Ngày tiễn chồng ra trận, nàng đã dặn rằng: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”. Từng lời, từng chữ nàng thốt ra thấm đẫm tình nghĩa vợ chồng thủy chung, son sắt, khiến “mọi người đều ứa hai hàng lệ”. Phận làm vợ, ai chẳng mong chồng mình được phong chức tước, áo gấm về làng. Còn nàng thì không. Nàng chỉ ước ao giản dị rằng chàng Trương trở về được bình yên để có thể sum họp, đoàn tụ gia đình, hạnh phúc ấm êm như ngày nào.Qua lời thoại cũng thể hiện nỗi nhớ nhung khắc khoải của người vợ yêu chồng. Nhìn đâu cũng nhớ, cũng tưởng tượng đến chồng. Đây cũng chính là lời nói của người vợ thùy mị nết na, dịu dàng và rất yêu chồng. Lời dặn dò ấy xuất phát từ trái tim giàu tình yêu thương biết chấp nhận tất cả, biết đợi chờ để yên long người đi xa. Đồng thời òn giúp ta cảm nhận được khát khao bình dị của người phụ nữ trong xã hội phong kiến có một gia đình hạnh phúc, êm ấm. Thế nhưng mong ước của nàng đã không thực hiện được. Bị chồng một mực nghi oan, Vũ Nương tìm mọi lời lẽ để chứng minh sự trong sạch của mình. Nàng vẫn đoan trang, đúng mực, chỉ nhẹ nhàng giải thích: b. Đến lời thoại thứ 2 ta biết them được rằng: “Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng. Ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”. Lời thoại của nàng luôn từ tốn, nhẹ nhàng, chất chứa nghĩa tình. Chỉ qua những lời thoại, từ “ngôn” của Vũ Nương đã để lại một ấn tượng khó phai trong lòng người đọc bởi vẻ từ tốn, tế nhị của nàng. Và cũng từ những câu nói ấy, chúng ta cảm nhận được sự hy sinh vô bờ của nàng vì chồng con, gia đình. Khi chồng ra trận, cả giang san nhà chồng trĩu nặng trên đôi vai gầy guộc, mỏng manh của nàng. Nàng phải sinh con một mình giữa nỗi cô đơn lạnh lẽo, thiếu sự vỗ về, an ủi của người chồng. Thật là một thử thách quá khó khăn với một người phụ nữ chân yếu tay mềm. Nhưng nàng vẫn vượt qua tất cả, một mình vò võ nuôi con khôn lớn, đợi chồng về. Lời thoại trên cũng là một lời giải thích cho sự hiểu nhầm tai hại của Trương Sinh: “ Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp”, nàng hết lòng hàn gắn hạnh phúc gia đình, nàng cố tình phân trần để chồng hiểu rõ lòng mình. c. Ở lời thoại lần thứ 3 nàng đã nói lên nỗi đau đớn thất vọng của mình: “ Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đầu còn có thể lại lên núi .Vọng Phu kia nữa”. Qua lời thoại Vũ Nương đã nói lên nỗi đau đớn thất vọng khi không hiểu sao mình bị nghi oan, bị đối xử bất công. Đồng thời đó còn là sự tuyệt vọng đến cùng cực khi khao khát của cả đời nàng vun đắp đã tan vỡ. Tình yêu không còn. Cả nỗi đau khỏ chờ chồng đến hoá đá như trước đây cũng không còn có thể làm được nữa. Sự tuyệt vọng đến cùng cực khi khao khát của cả đời nàng vun đắp đã tan vỡ. Tình yêu không còn. Cả nỗi đau khổ chờ chồng đến hoá đá như trước đây cũng không còn có thể làm được nữa. Sự chối bỏ của người chồng chính là nỗi bất hạnh lớn nhất của người phụ nữ. Sự chối bỏ ấy
  20. minh chứng cho tất cả, sự không tin tưởng, không yêu thương, tin tưởng vợ. Và còn gì đau xót hơn nỗi bất hạnh ấy đối với một người phụ nữ dành cả cuộc đời chăm lo cho chồng con cũng như cả gia đình nhà chồng. Lễ giáo phong kiến với những hủ tục bất công đã khiến người phụ nữ không được coi trọng trong xã hội, đến hạnh phúc cá nhân cũng không được tự do lựa chọn. Sự bất công trong xã hội phong kiến còn được thể hiện ở sự độc đoán của người chồng, toàn quyền quyết định mọi việc trong nhà, nghỉ oan cho vợ nhưng lại không nói thẳng cho vợ, cũng không nghe vợ thanh minh mà cứ vậy đánh đập rồi đuổi vợ đi. Chồng khăng khăng lên án vợ mà không chịu nghe nàng minh oan lấy một lời. Thái độ khinh bỉ, lời nói nhục mạ và hành động tàn bạo của Trương Sinh khiến nàng phải tìm đến cái chết. Uất ức, tủi nhục, Vũ Nương đã chọn cái chết để khẳng định phẩm giá trong sạch của mình. d. Lời thoại thứ 5 trước khi chết, nàng nguyện: “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Sau cùng, Vũ Nương đã trẫm mình xuống sông tự tử, hành động quyết liệt này thể hiện mong muốn gìn giữ nhân phẩm, đức hạnh và danh dự của người phụ nữ. Lời thoại là một lời than, một lời nguyền xin thần sông chứng giám nỗi oan khuất và tiết hạnh trong sạch của nàng. Lời thoại đã thể hiện nỗi thất vọng đến tột cùng, nỗi đau cùng cực của người phụ nữ phẩm giá nhưng bị nghi oan nên tự đẩy đến chỗ tận cùng là cái chết. Những lời nói cuối cùng của nàng thâu tóm tất cả những ngang trái của một đời phụ nữ: công lao nuôi con, chờ chồng thành vô ích; hạnh phúc gia đình (thú vui nghi gia nghi thất) tan vỡ, tình cảm vợ chồng không còn (bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió), cả nỗi đau khổ chờ chồng đến thành hóa đá trước đây cũng không còn có thể làm lại được nữa. Nàng có thể hi sinh tất cả, chịu nhường nhịn vì chồng vì con chứ thà chết không mang nỗi nhục này. Nàng chết đi để lương tâm thanh thản để bản thân trong sạch để không phải hổ thẹn với lòng với người. Những người phụ nữ nhỏ bé, không thể làm chủ cuộc sống của mình mà phải chịu biết bao phong ba bão táp, phó mặc cuộc đời của mình cho người khác. Chi tiết Vũ Nương gieo mình xuống bến sông Hoàng Giang là hình ảnh có sức ám ảnh lớn, khiến cho người đời mãi mãi xót xa về tấm bi kịch đẫm đầy nước mắt của người phụ nữ tốt đẹp nhưng chịu nhiều oan ức, là tấn bi kịch cái đẹp bị chà đạp, bị rẻ rúng, bị vùi dập không thương tiếc, là bản án đanh thép tố cáo bộ mặt tàn bạo, bất nhân của xã hội phong kiến đương thời. Để cho Vũ Nương tìm đến cái chết là tìm đến giải pháp tiêu cực nhất. Nhưng dường như đó là cách thoát khỏi tình cảnh duy nhất của nàng. Đó cũng là cách duy nhất của nhà văn có thể lựa chọn. Hành động trẫm mình tự vẫn của nàng là hành động quyết liệt cuối cùng để bảo toàn danh dự. Bởi đối với nàng, phẩm giá còn cao hơn cả sự sống. e. Khái quát: Qua câu chuyện từ nhiều thế kỉ trước bằng năng lực sáng tạo của mình Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật có chiều sâu hơn, các chi tiết kì ảo được mô tả vừa lung linh vừa hiện thực tạo lên vẻ đẹp riêng của tác phẩm. Vũ Nương là người phụ nữ thủy chung, đức hạnh vẹn toàn mà vô cùng bất hạnh. Tác phẩm là lời tố cáo hiện thực xã hội phong kiến đương thời nêu bật thân phận nỗi đau của người phụ nữ trong bi kịch gia đình. 3. Kết bài “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ là một áng văn hay - tiêu biểu cho thể loại truyền kỳ và được người đời đánh giá là “thiên cổ kỳ bút”. Qua những lời thoại của Vũ Nương ta cảm nhận được số phận bi đát của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, vừa có ý
  21. nghĩa ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha - tiêu biển là hình ảnh Vũ Nương, qua câu chuyện người đọc càng cảm thấy giá trị cuộc sống của người phụ nữ trong xã hội ngày nay. Đề 10: Phân tích đoạn truyện sau: “ Phan Lang người cùng làng với Vũ Nương mà biên đi mất” ( Ý Nghĩa các chi tiết kì ảo) 1. Mở bài “Chuyện người con gái Nam Xương” là tác phẩm tiêu biểu của Nguyễn Dữ. Thành công của Nguyễn Dữ trong tác phẩm này là xây dựng được nhiều chi tiết có giá trị. Trong đó nổi bật là những chi tiếtkì ảo cuối truyện. 2. Thân bài “Truyền kì mạn lục” là đỉnh cao của thể loại truyện truyền kì từng được đánh giá là “ Áng thiên cổ tùy bút”. Truyện thường sử dụng cốt truyện có sẵn từ dân gian, nhưng sự sáng tạo thêm các chi tiết để tác phẩm trở lên hấp dẫn. Nếu truyện cổ tích “ Vợ chàng Trương” kết thúc ở đoạn Vũ Nương nhảy xuống sông tự vẫn thì “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ ông sáng tạo thêm nhieuf chi tiết kì ảo khiến câu chuyện trở lên kì ảo và ý nghĩa. a. Khái quát chi tiết kì ảo Phan Lang người cùng làng với Vũ Nương cứu con rùa mai xanh chính là Linh Phi vợ của vua Nam Hải. Trong một lần chạy loạn Phan Lang bị chết đuối và được Linh Phi cứu sống. Phan lang gặp Vũ Nương dưới động rùa. Vũ Nương nhắn gửi cho Trương Sinh hoa vàng cùng lời nhắn lập cho nàng cái đàn giải oan. Vũ Nương hiện về trong giây lát rồi biến mất. b. Ý nghĩa của chi tiết kì ảo Những chi tiết kì ảo trên là phần sáng tạo của Nguyễn Dữ so với truyện cổ tích “ Vơ chàng Trương” nó chứa đựng nhiều ý nghĩa và làm lên giá trị của tác phẩm. Để phù hợp với đặc trưng của truyện truyền kì, làm thành một kết thúc có hậu thỏa mãn ước mơ của nhân dân ta về một xã hội công bằng: Người ở hiền gặp lành, người gặp oan ức được minh oan. Khẳng định chân lí cái đẹp là bất tử Vũ Nương khôn chết mà được sống trong cõi vĩnh hằng vì nàng là hiện thân của cái đẹp. - Góp phần hoàn thành vẻ đẹp của Vũ Nương: Nàng không chỉ đẹp ở cuộc sống dương thế mà còn đẹp ở một thế giới khác. - Vũ Nương mặc dù được sống ở thế giới khác sung sướng và hạnh phúc nhưng khi nghe Phan lang kể chuyện nhà nàng đã ứa nước mắt. Đó là những giọt nước mắt xót xa nhung nhớ yêu thương một con người vẫn nặng tình, nặng nghĩa với gia đình, quê hương. - Không chỉ vậy với Trương Sinh người đã gián tiếp bức tử nàng, đẩy cuộc đời nàng đến đau thương mà Vũ Nương không một lời oán trách. Khi hiện về nàng vẫn thiết tha: “Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa”. Cho thấy Vũ Nương là một người giàu lòng vị tha, bao dung và nhân hậu. - Đối với Linh Phi người đã cứu sống nàng nên Vũ Nương luôn canh cánh trong lòng một lời thề: “ Cảm ơn đức Linh Phi đã thề sống chết cũng không bỏ” . Cho thấy Vũ Nương là người sống ân nghĩa thủy chung, là người trọng tình nghĩa. - Mặc dù sống ở cõi tiên nhưng Vũ Nương vẫn khao khát phục hồi danh dự, vẫn day dứt khổ vì nỗi oan chưa được giải nên nàng nhờ Phan Lang nhắn với Trương Sinh lập đàn giải oan cho nàng. - Yếu tố kì ảo góp phần phản ánh hiện thực và tố cáo xã hội phong kiến một cách sâu sắc hơn. Tuy tác phẩm kết thúc có hậu nhưng cũng không làm mất đi tính bi kịch của tác phẩm. - Vũ Nương trở về dương thế rực rỡ uy nghi nhưng chỉ thấp thoáng giữa dòng rồi bóng nàng mờ nhạt dần rồi biến mất.
  22. => Tất cả chỉ là ảo ảnh, là một chút an ủi cho người bạc phận là nàng và chồng con âm dương chia lìa đôi ngả, hạnh phúc thật sự đã vĩnh viễn rời xa đâu còn có thể lưu lại được nữa. - Lời từ biệt nghẹn ngào chua xót của nàng ở bến Hoàng Giang: “ Thiếp chẳng thể trở về nhân gia được nữa” đã kết tội cho xã hội phong kiến bất công đã chà đạp lên quyền sống của người phụ nữ. c. Đánh giá - Những yếu tố kì ảo được đưa vào truyện rất tự nhiên hợp lí bởi nó được đưa xen kẽ với yếu tố thực về địa danh: + Bến Hoàng Giang + Ải Chi Lăng + Về thời đại lịch sử cuối đời khai đại nhà Hồ + Cùng với nhân vật lịch sử Trần Thiên Bình. + Sự kiện lịch sử quân Minh sang xâm lược nước ta nhiều người chạy trốn đắm thuyền. + Trang phục của các mĩ nhân quần áo thướt tha mái tóc búi xẽ. + Tình cảnh nhà Vũ Nương: Không có người chăm sóc, cây cối rậm thành rừng, cỏ gai rợp mắt.  Tác dụng: Làm cho thế giới kì ảo lung linh mơ hồ trở lên gần gũi với cuộc đời thực, làm tăng độ tin cậy khiến người đọc không cảm thấy ngỡ ngàng. - Những yếu tố kì ảo có giá trị thật lớn. Thông qua các yếu tố kì ảo nhà văn thể hiện niềm thương cảm , trân trọng đối với người phụ nữ trong xã hội phong kiến đồng thời thể hiện ước mơ ngàn đời của nhân dân ta về chiến thắng cuối cùng cái thiện thắng cái ác, cái đẹp lẽ công bằng ở đời. 3. Kết bài Đã nhiều thế kỉ trôi qua nhưng đến nay “ Người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ vẫn còn nguyên giá trị. Những yếu tố kì ảo ở cuối truyện đã góp phần rất lớn tạo nên thành công ấy của tác phẩm. Nó góp phần thể hiện sâu sắc chủ đề của tác phẩm tạo nên sự hấp dẫn lôi cuốn đối với người đọc và làm lên sức sống lâu bền của áng thiên cổ tùy bút. Đọc tác phẩm ta thấy rõ tài năng sáng tạo tuyệt vời của Nguyễn Dữ, từ đó ta lại càng thêm nâng niu trân trọng cái tài, cái tâm của tác giả dành cho những thân phận bèo bọt trong xã hội phong kiến. HỒI THỨ 14: HOÀNG LÊ NHẤT THỐNG CHÍ ( Ngô Gia Văn Phái) III. Phân tích 1. Hình tượng vua Quang Trung – Nguyễn Huệ * Bối cảnh đất nước: Theo lời cầu xin của vua Lê Chiêu Thống quân Thanh kéo 29 vạn quân sang xâm lược nước ta với mục đích giúp nhà Lê giữ vững ngai vàng, đánh lại quân Tây Sơn nhưng thực chất chúng muốn thôn tính nước ta. => Nhận xét: Tình thế nguy kịch trước cảnh của nhân dân trong tình thế “ Ngàn cân treo sợi tóc” - Từ đó càng làm nổi bật lên vai trò và sự anh minh sáng suốt của vua Quang Trung khi đánh tan 29 vạn quân Thanh lập lên chiến công lẫy lừng. a. Lòng yêu nước tự hào, tự tôn dân tộc - Nghe tin quân Thanh tràn vào Thăng Long, Nguyễn Huệ rất giận định cầm quân đi ngay. =>Như vậy chứng tỏ lòng căm thù giặc sâu sắc, không thể chấp nhận được đất nước có giặc ngoại xâm chiếm đóng. - Lòng yêu nước của vua còn thể hiện rõ nét qua lời phủ dụ. Nhà vua nhắc lại tinh thần yêu nước quật cường của dân tộc trong lịch sử gắn với tên tuổi của những bậc anh hùng. Điều này
  23. chứng tỏ với ông tình yêu nước đã được thấm nhuần và trở thành sợi chỉ đỏ chi phối những suy nghĩ hành động vì nước, vì dân. - Khi lên ngôi Nguyễn Huệ xưng “ đế” chứ không phải xưng “vương”. Vì vương và vua chỉ là ở một nước nhỏ, một nước chư hầu còn đế là vua của một nước lớn để khẳng định sự ngang hàng giữa nước ta với các nước phương Bắc. b. Hành động mạnh mẽ nhưng quyết đoán - Trong khoảng thời gian ngắn ( hơn 1 tháng) từ ngày nghe tin quân Thanh tràn vào Thăng Long vào ngày 22/11/1788 đến ngày 5/1/1789 ông đã làm được nhiều việc lớn: tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế, đốc suất đại binh ra bắc, gặp người cống sỹ là nguyễn Thiếp ở Nghệ An, tuyển mộ quân lính, mở cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, đọc lời phủ dụ, định kế hoạch hành quân và đánh giặc, lên kế hoạch đối phó với quân Thanh sau khi ta chiến thắng. => Nhận xét: Từ đầu đến cuối đoạn trích luôn hành động sâu sắc nhanh gọn và rất quả quyết. Rõ ràng với ông việc quân Thanh tràn vào Thăng Long không làm nao núng tinh thần. Ông vẫn bình tĩnh đưa ra những quyết định và hành động đúng đắn để đối phó với quân Thanh. c. Trí tuệ sáng suốt nhạy bén - Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc, thế tương quan giữa ta và địch: Ông nhận ra rằng dù quân Thanh rất đông chiếm được Thăng Long dễ dàng nên sinh thói chủ quan, chúng chỉ tập trung tiệc tùng mà lơi là việc quân sỹ. Nhân cơ hội đó nhà vua khẩn trương xây dựng kế sách hành binh, chủ động đánh ra Thăng Long đánh bất ngờ quân Thanh. - Trong lời phủ dụ quân sĩ, ông chỉ rõ dã tâm của giặc hòng biến phương Nam thành một quận, huyện của chúng để chúng vơ vét của cải, đàn áp dân lành. Hành động của chúng không hợp với lẽ trời, hợp với lòng người, từ đó khích lệ được tinh thần đấu tranh của tướng sĩ. - Việc dùng người của nhà vua cũng thể hiện sự sáng suốt, ông đủ tin mình và tin người để trọng dụng những tựu thần của nhà Lê bởi ông nhận ra được cái tài và cái tâm của họ. Ông cũng là người hiểu sở trường, sở đoản của các tướng sỹ, xử lí đúng người, đúng tội khen chê kịp thời. Khi đến Tam Điệp ông đã tha chết cho Sở và Lân. Ông hiểu rằng họ rút quân từ Thăng Long đến Tam Điệp là kế sách của Ngô Thì Nhậm. => Đánh giá: Như vậy với trí tuệ nhạy bén, nhà vua đã có những cách xử lí linh hoạt kịp thời với lòng người, ý trời. d. Ý chí quyết chiến, quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng - Mặc dù chưa dành được một tấc đất nhưng vua Quang Trung đã khẳng định: “ Chỉ đánh mươi ngày là thắng”. Thực tế thắng lợi trước quân Thanh còn sớm hơn dự định. Như vậy với tầm nhìn xa trông rộn, vua Quang Trung đã có những dự đoán chính xác. - Trong lời phủ dụ tướng sỹ, ông cũng nghiêm khắc răn đe những kẻ ăn ở hai lòng: “ Chớ có quen thói cũ chớ bảo ta không nói trước” Chính lời răn đe nghiêm khắc ấy đã thể hiện ý chí quyết chiến, quyết thắng của vị tướng tài ba. - Ông còn cử Ngô Thì Nhậm lo việc ngoại giao giữa quân ta và quân Phương Bắc để taoj hòa khí, vì phương Bắc lớn gấp 10 lần nước mình khi thua trận sẽ trả thù. Nếu chúng quay lại chiếm đánh ngay sẽ gây khó dễ cho ta, chi bằng ta giả bộ thân thiện “ Lùi một bước để tiến 10 bước” có thời gian xây dựng lực lượng, lúc đó đánh bại chúng khó gì? e. Vua Quang Trung là một thiên tài quân sự - Kế sách hành binh: Cuộc hành binh thần tốc do vua QT chỉ huy đến nay vẫn khiến người đời kinh ngạc và thần phục. Với quãng đường dài từ Phú Xuân về Thăng Long số lượng quân sĩ đông, hành binh phải đảm bảo bí mật, an toàn sức khỏe để ra đến Thăng Long phải đánh trận ngay lập tức vậy mà “ Cơ nào, đội ấy” vẫn chỉnh tề. Thậm chí trên đường hành quân còn phải đối mặt với quân do thám của giặc nhưng quân đội Tây Sơn đều vượt qua. Vì thế quân Thanh
  24. ở Thăng Long không hề biết được quân Tây Sơn đang hành binh tiến về. Có thể thấy việc hành binh của quân tây sơn dưới sự chỉ đạo của vua Quang Trung được ví là “ Xuất quỷ, nhập thần” - Đánh Hà Hồi sử dụng kế “ nghi binh” sử dụng kế đánh trận là nửa đêm cho quân sỹ bắc loa tay truyền gọi, trống rong truyền mở vang khắp cả một vùng, quân Thanh trong thế bị động ngỡ quân Tây Sơn rất đông nên sợ hãi lần lượt nộp vũ khí xin hàng ta chiếm đồn Hà Hồi không mất một hòn tên, mũi đạn nào. + Kế sách đánh Ngọc Hồi: Do lúc này quân Thanh đã có sự chuẩn bị nên ông vận dụng linh hoạt kế sách đánh trận. Tuy nhiên nhà vua chỉ đạo quân sĩ đánh trận trong tình thế chủ động tấn công ứng phó kịp thời với quân địch: Ông cho quân sỹ lấy rơm, gấp nước tạo thành bức bình phong vô hiệu hóa mũi tên lửa của quân Thanh. Quân Thanh hun khói nhằm che mục tiêu của quân Tây Sơn nhưng trời đổi gió thành ra chúng tự hại mình, quân ta thừa thắng xông lên chém giết lung tung. - Bằng kế nghi binh ông tạo lên những đường mòn giả để quân Thanh thua trận sẽ tìm cách rút lui rồi dồn chúng vào đầm mực và lùa voi xuống giày xéo. - Bố trí quân bến sông Nhị Hà, khi quân Thanh ùa xuống cầu phao tìm đường trốn thì cầu đứt, quân địch ngã xuống sông lúc này quân Tây Sơn bắn mũi tên khiến xác quân Thanh tắc nghẽn sông Nhị Hà. => Nhận xét: Với cách đánh trận linh hoạt đội quân Tây Sơn của vau Quang Trung đã chiến thắng một cách lừng lẫy trước hơn 20 vạn quân Thanh. g. Hình ảnh lầm liệt của chiến trận - Vua Quang Trung thân chinh cầm quân không chỉ trên danh nghĩa mà còn là một tổng chỉ huy chiến dịch thật sự: Hoạch định phương liệt tiến đánh, tổ chức quân sĩ, một mình thống lĩnh vực mũi tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trên chiến trận. Hình ảnh vua Quang Trung cưỡi voi tiến vào kinh thành Thăng Long vào buổi trưa mùng 5 tháng giêng năm 1789, tấm áo choàng của vua sạm đen vị khói thuốc súng đã trở thành hình ảnh đẹp đẽ, rực rỡ, oai phong nhất trong lịch sử các vị vua của Việt Nam thời phong kiến. => Đánh giá khái quát: Qua Hồi 14 nhóm tác giả đã làm nổi bật hình ảnh của vua Quang Trung Nguyễn Huệ một con người tài - trí - đức vẹn toàn, một đấng minh quân tiêu biểu cho lòng yêu nước cho ý chí quật cường của dân tộc ta. 2. Hình ảnh vua tôi Lê Chiêu Thống và quân Thanh a. Vua tôi Lê Chiêu Thống - Vua Lê Chiêu Thống và bề tôi than tín đã vì lợi ích riêng của dòng họ và của mình mà cầu viện nhà Thanh, đưa quân sang chiếm đóng nước ta, đem giang sơn và vận mệnh dân tộc đặt vào tay kẻ xâm lược. Là kẻ “cõng rắn cắn gà nhà”. Hình ảnh vua Lê quỳ gối nhận sắc phong tử tướng giật tôn sĩ nghị đã trở thành nỗi nhục nhã của dân tộc. - Hình ảnh vua tôi Lê Chiêu Thống cùng mấy bề tôi thân tín đưa thái hậu chạy bán sống, bán chết ra ngoài cướp thuyền của dân, mấy ngày không được ăn, may gặp người thổ hào thương tình đón về cho ăn và chỉ đường chạy chốn, chui lủi theo đường tắt biên giới may đuổi được Tôn Sĩ Nghị, vua tôi chỉ biết nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt.Cuối cùng ông ta đã phải gánh chịu hậu quả của kẻ bán nước bỏ xác nơi xứ người. b. Quân Thanh - Những kẻ cướp nước cũng chịu thất bại đau đớn trước quân Tây Sơn Sầm Nghi đống thắt cổ tự tử, Tôn Sĩ Nghị thất trận tìm đường chạy trốn, lên ngựa không kịp đóng yên, quân thành đại bại. Quân sĩ các doanh khi nghe tin đều hoảng loạn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết đến nỗi sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được. Sự
  25. thảm hại của chúng còn tiếp diễn trên đường rút chạy về biên giới như một đám tàn quân ô hợp, không còn một chút sĩ khí. IV. Tổng kết 1.Nghệ thuật - Lời kể có sự kết hợp giữa yếu tố tự sự miêu tả - Nghệ thuật tương phản đối lập được sử dụng triệt để từ đầu đến cuối đoạn trích: Nghệ thuật tương phản đối lập: Một bên là hình ảnh oai phong lẫm liệt xông xáo dũng cảm của đội quân Tây Sơn và vua Quang Trung, một bên là hình ảnh run sợ hoảng loạn với thất bại thảm hại của quân Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống. - Nhịp điệu lời kể trong đoạn trích linh hoạt bộc lộ thái độ và cảm xúc của tác giả khi kể về quân Tây Sơn và vua Quang Trung nhịp nhanh, mạnh thể hiện niềm tự hào, hả hê, sung sướng của tác giả khi kể về quân Thanh, giọng điệu lời kể mỉa mai, bộc lộ rõ sự khinh bỉ khi kể về vua Lê Chiêu Thống giọng chậm thể hiện sự bùi ngùi xót xa vì đây cũng là triều đại học từng tôn thờ. - Đoạn trích mang đúng đặc điểm của thể chí, các tác giả được thể hiện rất trung thành khi chép lại những sự việc trong lịch sử một cách khách quan chân thực. 2. Nội dung - Hồi 14 đã khắc họa chân thực về vẻ đẹp hình tượng của vua Quang Trung với chiến công lẫy lừng đại phá hơn 20 vạn quân Thanh. - Hồi 14 cũng phản ánh sự thất bại thảm hại của quân Thanh và vua tôi Lê Chiêu Thống. LUYỆN ĐỀ THI VÀO THPT: - Đề 1: Viết bài văn khoảng 300 chữ giới thiệu về hồi thứ 14 trích “ Hoàng Lê nhất thống chí” của nhóm Ngô Gia Văn Phái. - Đề 2: Tại sao nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái là những cựu thần của nhà Lê mà họ lại khắc họa rõ nét đẹp của vua Quang Trung qua hồi thứ 14? - Ngô gia văn phái là cựu thần nhà Lê vẫn trung thành với nhà Lê, không mấy cảm tình với Tây Sơn thậm chí xem Tây Sơn như giặc mà các tác giả vẫn viết về Quang Trung và những chiến công của đoàn quân áo vải một cách cảm tình hào hứng như vậy bởi vì: - Cuộc khởi nghĩa của nghĩa quân Tây Sơn là sự thật lịch sử mà các tác giả đã được chứng kiến tận mắt, là những trí thức có lương tâm, những người có tâm huyết và tài năng nên các ông không thể không tôn trọng lịch sử. - Mặt khác, các tác giả cũng được chứng kiến tận mắt sự thối nát, kém cỏi, hèn mạt của nhà Lê cùng sự độc ác, hống hách, ngang ngược của giặc Thanh nên các ông không thể không thở dài ngao ngán, cảm thấy nhục nhã, ý thức dân tộc không thể không được dâng cao. =>Tất cả những điều đó đã đem đến những trang ghi chép chân thực mà xúc động, tự hào như vậy. Đề: Tại sao lại gọi Hoàng Lê nhất thống chí là bộ tiểu thuyết lịch sử Hoàng Lê nhất thống chí được coi là cuốn tiểu thuyết lịch sử vì: - Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm văn xuôi đầu tiên có quy mô lớn của bộ sử thi. Tác phẩm mang giá trị về văn học và sử học. - Tác giả tái hiện lại bức tranh xã hội phong kiến đầy biến động cuối thể kỉ XVIII, những nhân vật ở tầng lớp trên của xã hội phong kiến không còn giữ đúng vai trò, trách nhiệm với dân. Trong triều đình, vua chúa tham quan sống sa đọa. Vua Cảnh Hưng cam chịu sống bạc nhược, Trịnh Tông trở thành con rối của đám kiêu binh. Vua tôi Lê Chiêu Thống bán nước, luồn cúi. - Cuốn tiểu thuyết lịch sử chương hồi này phản ánh rõ nét đời sống cơ cực của người dân dưới thời Lê mạt: bất ổn, đói khổ.
  26. - Bên cạnh đó là hình ảnh nghĩa quân Tây Sơn mà nổi bật là hình ảnh người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ trí tuệ sáng suốt, có tài cầm quân, có công đánh đuổi ngoại xâm ra khỏi bờ cõi. Đề 3: “Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi nghe lệnh rồi dụ họ rằng: Quân Thanh sang xâm lấn nước ta chớ bảo là ta không nói trước.” Cảm nhận của em về đoạn trích trên. Lời phủ dụ của vua Quang Trung có ý nghĩa như thế nào đối với thế hệ trẻ Việt Nam trong tình hình đất nước hiên nay. “Hoàng Lê nhất thống chí” là bộ tiểu thuyết chương hồi xuất sắc nhất của nền văn học trung đại Việt Nam do một nhóm tác giả thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai truyền đời sáng tác. “Hồi thứ 14” thể hiện niềm tự hào dân tộc của các tác giả qua việc tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng dân tộc Quang Trung Nguyễn Huệ hiện lên thật cao đẹp, với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người. Đặc biệt trong lời phủ dụ quân lính ở Nghệ An đã thể hiện rất rõ điều ấy: “Vua Quang Trung cưỡi voi ra doanh yên ủi quân lính, truyền cho tất cả đều ngồi nghe lệnh rồi dụ họ rằng: Quân Thanh sang xâm lấn nước ta .chớ bảo là ta không nói trước.” Quang Trung là một vị vua văn võ toàn tài, có công lao lớn trong sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm. Nhân vật lịch sử đi vào văn chương như một hình ảnh đẹp, đậm chất sử thi. Hồi thứ 14 trích “Hoàng Lê nhất thống chí” đã làm toát lên vẻ đẹp hào hùng của người anh hùng áo vải trong chiến công lừng lẫy đại phá quân Thanh: là một vị vua yêu nước thương dân; là người có trí tuệ sáng suốt, nhạy bén; có tầm nhìn xa trông rộng; hành động mạnh mẽ quyết đoán, tài dụng binh như thần; ý chí quyết chiến quyết thắng Lòng yêu nước được hiểu là tình cảm, thái độ của con người đối với quê hương đất nước, luôn lo lắng cho sự tồn vong của dân tộc, sẵn sàng hi sinh lợi ích cá nhân khi Tổ quốc cần. Lời phủ dụ binh lính của vua Quang Trung Nguyễn Huệ được truyền trước binh lính tại Nghệ An vào ngày 29 tháng Chạp, trước khi hành quân ra Tam Điệp. Trong lời dụ, vua Quang Trung khẳng định chủ quyền dân tộc bằng cách nhắc đến lịch sử chống ngoại xâm của dân ta. Đồng thời qua đó, khơi gợi lòng yêu nước, quyết chiến quyết thắng ở binh sĩ. Nhà vua mở đầu bằng lời cảnh báo: “Quân Thanh sang xâm lấn nước ta, hiện đang ở thành Thăng Long các người có biết?”. Câu hỏi có tác dụng đánh thức lương tri của binh sĩ. Ngay sau đó, ông lập tức khẳng định chủ quyền của dân tộc: “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng ” Đó cùng là lời tuyên bố chủ quyền lãnh thổ của dân tộc trong “Nam quốc sơn hà” tác giả khẳng định: “Nam quốc sơn hà Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư” (Sông núi nước Nam vua Nam ở – Rành rành định phận ở sách trời); trong “Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi): “Như nước Đại Việt ta từ trước Vốn xưng nền văn hiến đã lâu Núi sông bờ cõi đã chia Phong tục Bắc Nam cũng khác Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương”. Tiếp đến, ông nêu bật dã tâm của giặc để thổi bùng lên ngọn lửa căm thù giặc trong lòng tướng sĩ: “Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”, “Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước
  27. Nam ta đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa”. Hành động xâm lược của “giặc dữ” (nghịch lỗ) là hành động phi nhân nghĩa trái với đạo trời. Tội ác của giặc ngoại xâm được Trần Quốc Tuấn chỉ rõ “Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, sao cho để khỏi tai vạ về sau” (Hịch tướng sĩ). Nguyễn Trãi cũng đã vạch trần: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ trăm ngàn kế ”, “Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội ” Đúng là tội ác “Trời không dung, đất không tha”. Để khơi gợi ý chí đánh giặc, ông nhắc lại truyền thống chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta: “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo, nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc”. Lời phủ dụ binh lính, tướng sĩ của người anh hùng áo vải Quang Trung trong cuộc đại phá quân Thanh đã nhắc đến Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn – một tấm gương yêu nước bất khuất có tác dụng động viên to lớn đối với các tướng sĩ. Ý chí tinh thần chống giặc ngoại xâm, xả thân vì nước trong bài hịch như còn mãi âm vang: “Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng” (Hịch tướng sĩ). Lại nhắc đến tấm gương Lê Thái Tổ không nỡ ngồi nhìn giặc Minh làm điều tàn bạo, đã dấy nghĩa quân: “Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Tổ kiến hổng phá toang đê vỡ”. Đó là những dẫn chứng xác thực về lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc: “Tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau – Song hào kiệt đời nào cũng có”, “Việc xưa xem xét – Chứng cứ còn ghi” (Bình Ngô đại cáo). Từ đó, ông bày tỏ lòng tin vào binh lính và kêu gọi họ dốc lòng, dốc sức vì sự nghiệp chung đánh đuổi kẻ thù để bảo vệ chủ quyền của dân tộc: “Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các ngươi đều là những kẻ có lương tri, lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực, để dựng nên công lớn”. Lời hiệu triệu toàn dân đứng lên đánh giặc giữ nước của vua Quang Trung cũng là lời khích lệ tinh thần chiến đấu của Trần Quốc Tuấn đối với các tướng dưới quyền: nêu cao tinh thần cảnh giác, chăm lo tập luyện cung tên, học tập “Binh thư yếu lược”. Đó cũng là lời của Nguyễn Trãi: “Nhân dân bốn cõi một nhà Hoà nước sông chén rượu ngọt ngào”. Cuối cùng, ông khẳng định quyết tâm sắt đá đánh đuổi quân xâm lược nhà Thanh, đồng thời cũng tuyên bố kỷ luật nghiêm minh của quân đội để răn đe những kẻ bạc nhược có ý ăn ở hai lòng: “Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo là ta không nói trước!”. Đó cũng là thái độ nghiêm khắc của Trần Quốc Tuấn chỉ ra con đường: sống – chết, vinh – nhục; đạo thần chủ – kẻ nghịch thù để tướng sĩ thấy rõ chỉ có thể chọn một hoặc địch – hoặc ta chứ không có chỗ đứng cho những kẻ bàng quan thờ ơ trước thời cuộc. Qua lời phủ dụ binh lính chứng tỏ vua Quang Trung là nhà chính trị, quân sự, ngoại giao có trí tuệ sáng suốt, nhìn xa thấy rộng, biết mình biết người, sâu sắc và tâm lí, ân uy gồm đủ. Âm vang trong lời phủ dụ của vua Quang Trung có tinh thần của “Nam quốc sơn hà”, có hào khí của “Hịch tướng sĩ”, của “Bình Ngô đại cáo”. Tất cả bắt nguồn từ cảm hứng yêu nước và niềm tự hào dân tộc. Lòng yêu nước của nhà vua đã truyền thấm vào binh sĩ.
  28. Lời phủ dụ tướng sĩ của vua Quang Trung Nguyễn Huệ tại cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An có thể xem như một bài hịch ngắn gọn, lập luận chặt chẽ, lời lẽ đanh thép, giọng điệu hào hùng mà ý tứ thật phong phú sâu xa, có tác dụng kích thích lòng yêu nước và truyền thống quật khởi của dân tộc. Trí tuệ, tấc lòng của một vị vua vì nghĩa lớn đã mạnh hơn thiên kiến giai cấp của các tác giả. Chính vì vậy mà các tác giả của “Hoàng Lê nhất thống chí” đã xây dựng một tượng đài bất hủ về người anh hùng Nguyễn Huệ – một hình ảnh hiếm thấy trong lịch sử. Qua lời phủ dụ binh lính ta cũng thấy rõ Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ người anh hùng dân tộc hội đủ đức tài, là bậc kì tài hiếm có trong lịch sử dân tộc. Khi trở thành hình tượng văn học thì vẻ đẹp ấy lại càng uy nghi. Tác phẩm của Ngô gia văn phái không chỉ phản ánh một giai đoạn lịch sử hào hùng của dân tộc mà còn lưu lại ánh hào quang về người anh hùng kiệt xuất với lòng yêu nước mãnh liệt ở thế kỉ XVIII. Tinh thần yêu nước, ý chí , quyết tâm đánh giặc cứu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong lịch sử mấy nghìn năm của nước ta. Những năm đất nước có chiến tranh, tuổi trẻ yêu nước là phải biết ra chiến trường. Ngày nay, trong thời kỳ xây dựng đất nước, để thể hiện tinh thần yêu nước, Tuổi trẻ phải biến thành hành động cụ thể trong đời sống: giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường, thực hiện nếp sống văn minh, hoàn thành tốt nhiệm vụ lao động, học tập, đua tài đấu trí trên đấu trường quốc tế Phê phán, lên án những người sống thực dụng, chỉ biết vun vén cho quyền lợi cá nhân, biết đòi hỏi mà không biết cống hiến hoặc vô tâm, thờ ơ trước thời cuộc, luôn mang tu tưởng vọng ngoại, đánh mất bản sắc văn hóa dân tộc Lời phủ dụ binh lính của vua Quang Trung thể hiện sự anh minh sáng suốt và mang âm hưởng hào hùng của các tác phẩm: Nam quốc sơn hà (Lý Thường Kiệt), Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Bình Ngô đại cáo (Nguyễn Trãi). Đó mãi là những viên ngọc quý của văn chương dân tộc, lấp lánh nguồn cảm hứng yêu nước. Các tác giả Ngô gia văn Phái viết Hoàng Lê nhất thống chí đã dành cho vua Quang Trung những trang đẹp nhất, hào hùng nhất. Ngô gia văn Phái là những người cầm bút chân chính, biết tôn trọng lịch sử. Ca ngợi Quang Trung là ca ngợi ý chí và trí tuệ của dân tộc Việt Nam. Tự hào về chiến công của cha ông khi phá Tống, đuổi Nguyên, bình Ngô, đạp Thanh ta cần giữ gìn phát huy truyền thống ấy hơn nữa để xứng đáng là con Lạc, cháu Hồng. Đề: Hình tượng vua Quang Trung qua đoạn trích hồi thứ 14 của “Hoàng Lê nhất thống chí” ( *) 1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề: Hình tượng vua Quang Trung Nguyễn Huệ, vị chiến tướng dùng kì mưu hạ thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ, vị thống tướng đã tiêu diệt 3 vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm – Xoài Mút trong một trận thuỷ chiến trời long đất lở. Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đã đạp đổ ngai vàng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài rồi kết duyên cùng công chúa Ngọc Hân làm chấn động Bắc Hà. Nguyễn Huệ – vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược, xây nên gò Đống Đa lịch sử bất tử. Đọc Hồi thứ 14 của Hoàng Lê nhất thống chí, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta bao ấn tượng không phai m 2. Thân bài: a. Khái quát tác phẩm + hồi thứ 14 – “Hoàng Lê nhất thống chí” là một cuốn tiểu thuyết lịch sử bằng chữ Hán được viết theo thể chương hồi do nhiều tác giả trong Ngô Gia Văn Phái (Ngô Thì Chí, Ngô Thì Du ) sáng tác. Đây là một bức tranh sâu rộng vừa phản ánh được sự thối nát, suy tàn của triều đình Lê Trịnh, vừa phản ánh được sự phát triển của phong trào Tây Sơn.
  29. – Trong hồi thứ 14 của tác phẩm, hình tượng người anh hùng Quang Trung hiện lên thật cao đẹp với khí phách hào hùng, trí tuệ sáng suốt và tài thao lược hơn người. b. Hình tượng vua Quang Trung a.Trước tiên, Cần thấy rằng Quang Trung là người có lòng yêu nước nồng nàn, có lòng tự hào dân tộc sâu sắc, tiếp nối truyền thống của Trưng Nữ Vương, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ - Nghe giặc chiếm đóng Thăng Long định thân chinh cầm quân đi ngay. - Tinh thần dân tộc của Quang Trung thể hiện rất rõổtng lời phủ dụ các tướng sĩ trước khi lên đường ra Bắc “Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương Nam, phương Bắc chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phảI nòi giống ta, bụng dạ ắt khác”và “Đời Hán có Trưng Nữ Vương, Đời tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê đại Hành .Các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc” => Lời phủ dụ mang âm hưởng của Nam quốc sơ hà, Hịch tướng sĩ, Bình ngô địa cáo, Nó mang tâm hồn dân tộc và khí phách anh hùng của các bậc tiền bối vằng lại. b.Quang Trung là vị vua có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng: - Có quan hệ gần gũi, chan hoà và biết lắng nghe ý kiến của tướng sĩ: + Định thân chinh cầm quân đI ngay nhưng nghe lời can ngăn, ông đã lên ngôi để “chính vị hiệu” rồi mới hạ lệnh xuất quân. + Tới Nghệ An , QT cho vời người cống sĩ ở huyện La sơn để hỏi ý kiến “Kế nên đánh hay giữ ra sao”. + Ra quân lệnh rất nghiêm “Chớ nên ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị ta giết chết ngay tức khắc, chớ bảo là ta không nói trước!” nhưng kế đó ông “Ra doanh yên ủi quân lính” rồi tha cho hai tướng Sở và Lân để họ lấy công chuộc tội. - Sáng suốt trong việc nhận định thời cuộc: Mới khởi binh đánh giặc đã tính toán chu đáo đầy đủ “- Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn”. Tính cả kế hoạch ngoại giao sau khi thắng với chủ trương “Dẹp việc binh đao để phúc cho dân” - Sáng suốt, nhạy bén trong việc dùng binh: Chỉ huy quân lính hành quân thần tốc : Vừa hành quân, vừa tuyển quân, duyệt binh, tiến đánh chỉ trong vòng 5 ngày đã giành thắng lợi - Mới khởi binh đã hẹn ngày chiến thắng “Hẹn ngày mồng 7 năm mới thì vào Thăng Long mở tiệc ăn mừng, các ngươi nhớ lấy, đừng cho là ta nói khoác”. => Như vậy Quang Trung là người có trí tuệ phi thường. c.Quang Trung là người có ý chí, hành động mạnh mẽ, quyết đoán: - Nghe tin giặc tới Thăng Long không hề nao núng định thân chinh cầm quân đi ngay. - Từ khi gặc đến làm được biết bao việc có ích, nhanh chóng: Tế cáo trời đất, lên ngôi, phủ dụ quân lính, hoạch định phương lược tiến đánh, tuyển mộ quân lính, duyệt binh, tiến đánh, đánh trận nào thắng trận ấy. - Mạnh mẽ trong điều binh khiển tướng, trực tiếp chỉ huy các trận đánh, tự tin trong các trận đánh, sự tự tin dựa trên những cơ sở đã được phân tích và chuẩn bị kĩ lưỡng. d. Quang trung là vị vua lẫm liệt trong chiến trận: - Tự thân chỉ huy một đạo quân, cưỡi voi xông pha giữa trận mạc, vừa chỉ huy, vừa tham gia chiến đâú trong mọi trận đánh, đối lập hoàn toàn với Lê Chiêu Thống- Một ông vua đớn hèn. - Linh hoạt trong kế sách đánh giặc, ở mỗi trânh đánh chọn phương lược tiến đánh khác nhau nhưng rất phù hợp và hiệu quả: Trận phú xuyên đánh bí mật, trận Hà Hồi đùng cách đánh mưu lược, táo bạo chắc thắng, trận Ngọc Hồi dùng cách đánh áp lá cà nhưng mưu trí mạnh mẽ - Hình ảnh Quang Trung “áo bào đen sạm khói súng”mãi là hình ảnh lẫm liệt của vị anh hùng dân tộc trong tâm trí người đọc.
  30. c. Đánh giá Như vậy, bằng những lời văn chân thực, hồi thứ 14 của Hoàng lê nhất thống chí đã khắc họa thành công hình tượng vua Quang Trung – một vị vua yêu nước, sáng suốt nhạy bén và có tầm nhìn xa trông rộng. Xây dựng hình tượng này, các tác giả đã gửi gắm vào đó sự cảm phục trước tài năng, đức độ của vua Quang Trung và niềm tự hào sâu sắc về lịch sử của nước nhà. Tình cảm ấy thật đáng trân trọng. 3. Kết bài: Quang Trung là hình ảnh sáng ngời, biểu tượng cho tinh thần và sức mạnh quật cường, cho ý chí độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam. Hình ảnh ấy mãI khắc ghi trong chúng ta niềm tự hào về truyền thống đấu tranh bất khuất của dân tộc ta và lòng biết ơn sâu sắc về người con ưu tú của cả dân tộc. CHỊ EM THÚY KIỀU ( Nguyễn Du) Đề 1: Phân tích đoạn trích Chị em Thúy Kiều - Nguyễn Du. Dàn ý tham khảo I. Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, trích dẫn thơ. II. Thân bài 1. Khái quát chung - Hoàn cảnh ra đời, nguồn gốc, - Vị trí đoạn trích 2. Phân tích a. Bốn câu thơ đầu: Giới thiệu khái quát về hai chị em Thúy Kiều. - Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật ước lệ, cổ điển để giới thiệu về lai lịch, thứ tự trong gia đình và vẻ đẹp của hai chị em: “Đầu lòng hai ả tố nga Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân Mai cốt cách tuyết tinh thần Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười” + Lai lịch: Họ là hai người con gái đầu trong gia đình họ Vương + Thứ tự trong gia đình: Thúy Kiều là chị, Thúy Vân là em + Vẻ đẹp của hai chị em - “Mai cốt cách”: Cốt cách thì thanh cao như hoa mai. Đó là một loài hoa mà sắc thì rực rỡ, hương thì quý phái - “Tuyết tinh thần”: Phong thái, tinh thần thì trong trắng, tinh khiết như hoa tuyết. - Nhịp điệu 4/4, 3/3 ở câu thơ thứ hai, nhịp nhàng, đối xứng, làm nổi bật được vẻ đẹp đến độ hoàn mĩ của cả hai chị em. - Tác giả sử dụng lời bình để khép lại bốn câu thơ đầu: + “Mỗi người một vẻ”, cho thấy nét riêng từ nhan sắc, tính cách, tâm hồn của mỗi người. + “Mười phân vẹn mười”, đã tô đậm được vẻ đẹp đến độ toàn diện, hoàn hảo của hai chị em. => Lời giới thiệu vô cùng ngắn gọn, nhưng đã mang đến cho chúng ta nhiều thông tin phong phú và những ấn tượng đậm nét nhất về vẻ đẹp của hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều. Đồng thời, cũng bộc lộ được cảm hứng ca ngợi cái tài hoa, nhan sắc của con người qua nghệ thuật điêu luyện, tài hoa của Nguyễn Du b. Bốn câu thơ tiếp theo: Gợi tả vẻ đẹp của Thúy Vân