Sáng kiến kinh nghiệm: "Một vài biện pháp giúp học sinh vùng khó khăn thực hành tốt môn Tiếng Việt lớp 2 + 3 Trường Tiểu học Thạnh Hưng 2"

doc 22 trang nhatle22 4020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm: "Một vài biện pháp giúp học sinh vùng khó khăn thực hành tốt môn Tiếng Việt lớp 2 + 3 Trường Tiểu học Thạnh Hưng 2"", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_bien_phap_giup_hoc_sinh_vung_k.doc

Nội dung text: Sáng kiến kinh nghiệm: "Một vài biện pháp giúp học sinh vùng khó khăn thực hành tốt môn Tiếng Việt lớp 2 + 3 Trường Tiểu học Thạnh Hưng 2"

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHẦN I: LÝ LỊCH - Họ và tên: Huỳnh Minh vũ - Chức vụ: Giáo viên - Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thạnh Hưng 2, Thạnh Hưng, Giồng Riềng, Kiên Giang. - Tên đề tài: “ Một vài biện pháp giúp học sinh vùng khó khăn thực hành tốt môn Tiếng Việt lớp 2 + 3 Trường Tiểu học Thạnh Hưng 2”. PHẦN II: NỘI DUNG I/ Lời nói đầu 1/ Lý do chọn đề tài “Giáo dục Tiểu học” nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản khác vì vậy các kỹ năng cơ bản được hình thành và phát triển trong quá trình dạy học tất cả các môn học và hoạt động giáo dục ở Tiểu học. Trong đó môn Tiếng Việt đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành và phát triển các kỹ năng cơ bản về nghe, nói, đọc, viết cho nên có thể nói đây là một môn học “cốt lõi” liên quan trực tiếp với việc hình thành các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết là nền tảng góp phần học tốt các môn học khác. Đối với học sinh lớp 2, 3 Trường Tiểu học Thạnh Hưng 2 là trường có nhiều học sinh yếu lại có hoàn cảnh khó khăn, đòi hỏi giáo viên phải lựa chọn phương pháp sư phạm và sự hỗ trợ đặc biệt để giúp các em đạt kết quả cao. Muốn như vậy người giáo viên phải nắm chắc chuẩn kiến thức, kỹ năng của từng môn học, từng bài học để việc dạy không vượt quá chuẩn hoặc dưới chuẩn. Được như thế học sinh đi vào tiết học nhẹ nhàng, vui nhộn mà đảm bảo kiến thức tất cả học sinh đều hiểu bài. Trong nhiều năm học qua và tồn tại đến giờ nhiều học sinh Tiểu học không biết đọc, không biết viết hoặc đọc chậm, viết chậm đó là một vấn đề được Bộ, Sở và Trang 1
  2. Phòng giáo dục đặc biệt quan tâm. Chính vì những yếu tố khách quan “chạy theo thành tích” mà không lo đến chất lượng. Những năm gần đây toàn ngành đã đổi mới cách nhìn, “cần chất lượng chứ không cần số lượng”. Trong năm học 2010 - 2011 tôi được phân công giảng dạy lớp ghép 2+3 ngay từ khi nhận lớp tôi nhận thấy học sinh ở trình độ 2 còn đọc chậm, viết chậm nhiều. Điều đó khiến tôi băn khoăn suy nghĩ tìm ra biện pháp để hỗ trợ cho các em, làm cách nào để các em tiến bộ nhanh đây? Đó là điều trăn trở khiến tôi phải đau đầu và quyết định nghiên cứu một đề tài là: “Một vài biện pháp giúp học sinh vùng khó khăn thực hành tốt môn Tiếng việt lớp 2 + 3, Trường Tiểu học Thạnh Hưng 2” 2/ Sơ lược lịch sử Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho học sinh, năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong bốn dạng hoạt động tương ứng là: Nghe, đọc, nói, viết. Việc đổi mới phương pháp dạy học Tiếng Việt chính là việc ngày càng tìm cách đi vào bản chất của quá trình dạy học Tiếng Việt và tìm ra những quy luật chi phối sự vận động của quá trình này. Như vậy, phương pháp dạy học Tiếng Việt chỉ có hiệu quả khi có phản ánh đúng đặc trưng của quá trình dạy học Tiếng Việt. Đối với học sinh, có thể xem việc giải bài tập Tiếng Việt là một phương tiện rất có hiệu quả và không thể thay thế được trong việc giúp học sinh có năng lực ngôn ngữ, phát triển tư duy. Trên thực tế dạy học Tiếng Việt được sử dụng với những mục đích khác nhau. Một bài tập có thể dùng để vào bài, dạy bài mới, củng cố, kiểm tra. Lịch sử hình thành lí thuyết bài tập dạy Tiếng Việt phức tạp, nhiều tác giả, có thể chia làm hai giai đoạn lớn, tương ứng với hai giai đoạn phát triển của phương pháp dạy học Tiếng Việt: Giai đoạn, phương pháp dạy học Tiếng Việt sử dụng trực tiếp các tri thức của khoa học khác, giai đoạn 2 phương pháp dạy học Tiếng Việt xác lập một quan hệ mới với các khoa học tiếp cận, đi vào bản chất của đối tượng nghiên cứu của mình để tìm ra những quy luật chi phối sự vận động của nó, phục vụ cho mục đích nghiên cứu. Điều làm cho giai đoạn 2 có sự phát triển về chất là sự ra đời của Trang 2
  3. lí thuyết hoạt động lời nói, ở đó người ta quan niệm về sự hình thành, phát triển ngôn ngữ như là hình thành phát triển một hoạt động. Hệ quả kéo theo là việc dạy tiếng không phải cung cấp một kho tri thức thụ động về ngôn ngữ. Muốn hình thành, phát triển hành động nói năng phải thông qua một hệ thống bài tập. Quan niệm hoạt động lời nói đưa hệ thống bài tập dạy tiếng lên hàng ưu tiên. Bản thân hoạt động nói năng (đưa người đọc vào một hoạt động nói năng có tính chất tâm lí hiện thực ) đã bao hàm tính chất thực hành. Ở giai đoạn 1 của dạy tiếng, hệ thống bài tập không nhằm đưa học sinh vào hoạt động nói năng mà chỉ để củng cố những tri thức lí thuyết ngôn ngữ học. Hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng cần xây dựng hệ thống bài tập nhằm thực hiện đến mức thành thục các thao tác nói năng cho học sinh. Hệ thống bài tập phải phản ánh được một cách bao quát cơ chế lĩnh hội và sản sinh lời nói. Xây dựng một hệ thống bài tập như vậy là nhiệm vụ bức xúc đang đặt ra trước những người nghiên cứu phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. II/ Thực trạng vấn đề 1/ Thực trạng dạy học Thực tế cho thấy, học sinh Tiểu học, nhất là giai đoạn đầu cấp học, vốn từ rất nghèo nàn, kỹ năng sử dụng từ còn hạn chế, chưa nắm vững cấu trúc câu Do đó, khi dùng từ để nói, viết thành câu, các em sử dụng còn tuỳ tiện, dựa theo cảm tính mà không biết dùng đúng với ngữ cảnh. Các em hay bắt chước người khác, không đủ khả năng để chọn lọc hay suy nghĩ xem từ nào đúng, từ nào sai, câu này nên nói lúc nào, nên viết ra sao và dùng trong ngữ cảnh nào Vì vậy, các câu, bài cứ na ná như nhau. Học sinh dùng câu chưa đúng ngữ điệu, không có sự biểu cảm, mà đơn thuần chỉ là những câu liệt kê, thông báo đơn giản, học sinh dùng từ sai, làm cho người khác không hiểu ý mình cần diễn đạt. Vậy, làm thế nào để dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt thành thạo, có kỹ năng nói, viết đúng Tiếng Việt để từ đó phát triển kỹ năng nói viết hay ? Với thời lượng dạy học cho từng phân môn Tiếng Việt như hiện nay nói chung là hợp lý: Tuy nhiên đối với lớp ghép 2+3 của tôi thì chưa được. Do các em là người dân tộc Trang 3
  4. Khơme nhiều, việc tiếp thu còn chậm nên cần phải ôn luyện, rèn kỹ năng nhiều hơn. 2/ Những khó khăn Trong thực tế thì những khó khăn tôi gặp rất nhiều khi đứng lớp mà tôi đã cố gắng khắc phục. Tôi chỉ nêu vài khó khăn tiêu biểu góp phần làm cho các em thực hành tốt môn Tiếng Việt lớp 2, 3. - Do đặc điểm tâm lý các em còn nhỏ ham chơi hơn ham học chỉ học ở lớp có thầy cô bạn bè thì các em học, về nhà thì mãi chơi không học. - Do các em còn nặng cách đánh vần ở lớp 1 và một số phụ huynh ở nhà cũng dạy con như thế. - Do điều kiện kinh tế gia đình quá nghèo cha mẹ các em phải lo mưu sinh cho nên không có thời gian quan tâm đến việc học hành của con mình, không có thời gian dạy dỗ các em. Ăn mặc, học hành các em tự lo. - Trình độ các em không đồng đều, có em tiếp thu rất tốt nhưng một số em tiếp thu bài chậm, học yếu nên các em mặt cảm rồi chán nản nên nghỉ học hoặc không quan tâm đến việc học. III/ Biện pháp khắc phục và kết quả Năm học 2010 – 2011 tôi được phân công giảng dạy lớp ghép 2 + 3 điểm Chòm Tre, đây là một trong những điểm khó khăn nhất của Trường Tiểu học Thạnh Hưng 2, với tổng số học sinh là 16/3 nữ trong đó nhóm trình độ 2 là 9/2 nữ ( dân tộc là 6/1 nữ) nhóm trình độ 3 là 7/1 nữ. Tôi rất băn khoăn, lo lắng, muốn làm việc gì đó để giúp các em tiến bộ hơn . Do đặc thù lớp nằm ở điểm lẻ lại có nhiều học sinh dân tộc Khơme nên lớp học có nhiều học sinh học yếu Tiếng việt. Ngay đầu năm tôi tiến hành khảo sát và thu được kết quả như sau: Nhóm trình độ 2: Lớp Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 2+3 9/2 / / 1 11,11 5 55,55 3 33,33 Trang 4
  5. Nhóm trình độ 3: Lớp Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 2+3 7/1 / / 1 11,28 5 71,42 1 11,28 Sau khi khảo sát lớp và tìm hiểu từng nguyên nhân của đối tượng tôi đã đề ra biện pháp cụ thể để giúp các em thực hành tốt Tiếng Việt 1/ Biện pháp khắc phục. a/ Giúp học sinh mở rộng vốn từ thông qua việc chuẩn bị bài. Sau mỗi tiết học Luyện từ và câu trong Sách giáo khoa, tôi đều yêu cầu học sinh về nhà tìm các từ cùng chủ đề đang học. Đó là những từ ngữ mà các em thường gặp trong cuộc sống và có thể tham khảo thêm ý kiến của cha mẹ hoặc người thân. VD: Học về từ chỉ sự vật, học sinh về nhà quan sát các sự vật xung quanh, tìm từ ngữ để gọi tên sự vật đó để lên lớp ghi vào bảng nhóm (cỡ lớn) nếu cần thiết, có thể minh hoạ bằng hình vẽ hoặc giải thích cụ thể đối với những từ chỉ sự vật lạ, hiếm Những bảng từ được các em treo trên bốn bức tường của lớp. Lúc rảnh rổi hoặc giờ ra chơi, học sinh sẽ cùng nhau đọc và tìm ra sai hoặc không có nghĩa để sửa lại cho đúng. Cứ như vậy, ngày này qua ngày khác, những dòng chữ hiển hiện trước mắt “thấm” dần vào các em và các em có thêm rất nhiều từ mới (đôi khi chỉ là những từ ngữ rất giản dị như: Cây hồng, lá bàng, tờ lịch, tách trà ) Rồi cũng chính thông qua việc này mà các em tự ngầm hiểu đây chính là những từ chỉ tên sự vật, hiện tượng và sau này, khi được yêu cầu xác định những từ chỉ sự vật trong một văn cảnh cụ thể, các em có thể xác định khá chính xác và nhanh (kể cả những học sinh yếu) b/ Giúp học sinh mở rộng vốn từ và sử dụng từ ngữ thông qua hợp tác nhóm trong tiết rèn kỹ năng. Trang 5
  6. Muốn hiểu rõ nghĩa của từ, phải đưa từ đó vào văn cảnh cụ thể (trừ trường hợp giải thích theo từ điển). Do vậy, khi dạy học các tiết rèn kỹ năng, tôi thường tổ chức cho học sinh hoạt động theo nhóm với nhiệm vụ là luân phiên ghi vào bảng nhóm các từ chỉ sự vật hay hoạt động đặc điểm (tuỳ theo nội dung mỗi tiết học). Sau đó dùng từ tìm được để đặt câu. Khi các nhóm đã thực hiện xong nhiệm vụ, tôi tổ chức cho từng nhóm trình bày trước lớp để cả lớp cùng nhận xét về cách dùng từ đặt câu, về chính tả và chữ viết, Khi được tham gia vào các hoạt động như trên, các em có thể hiểu rõ nghĩa từ và dễ dàng xác định được cấu trúc câu cũng như đặc điểm của câu có liên quan đến loại từ được sử dụng. VD: Bộ phận trả lời câu hỏi là gì? Trong kiểu câu ai là gì? thường là các từ ngữ chỉ sự vật (gọi tên). - Bộ phận trả lời câu hỏi làm gì? Thường là những từ ngữ chỉ hoạt động - Bộ phận trả lời cho câu hỏi thế nào? Trong kiểu câu ai thế nào? thường là những từ ngữ chỉ trạng thái, tính chất. Bên cạnh đó, việc được tham gia vào quá trình chữa bài cho bạn cũng góp phần giúp học sinh biết cách tự chữa lỗi cho mình về dùng từ đặt câu và lỗi chính tả. Với sự hỗ trợ của giáo viên, qua các tiết rèn kỹ năng, học sinh đã biết đặt câu ngày càng đúng và phù hợp với văn cảnh. Cũng từ những hoạt động luyện tập như vậy, học sinh viết chính tả ngày càng chính xác, chữ viết ngày càng đẹp và tốc độ viết cũng đảm bảo yêu cầu, học sinh biết về cấu trúc câu và đặt câu theo mẫu nhanh hơn, nội dung diễn đạt đa dạng, phong phú và bước đầu có hình ảnh. VD: Những chú bướm tung tăng bay lượn như đang cùng muôn hoa khoe sắc. Ngoài ra, để tăng cường phép nhân hoá, so sánh đã học, phục vụ các kỹ năng nói, viết và làm bài tập làm văn hay hơn, trong các tiết rèn kỹ năng, tôi thường tổ chức cho học sinh tìm và tập sử dụng phép nhân hoá, so sánh (vì các tiết chính ít có thời gian thực hành). Tôi thường thực hiện hoạt động rèn kỹ năng Tiếng Việt thông qua các việc sau: Trang 6
  7. * Mở rộng vốn từ, sử dụng từ giáo viên yêu cầu học sinh tìm các từ chỉ sự vật, hoạt động, đặc điểm. Sau đó, hướng dẫn các em trao đổi, tìm ra những sự vật hay hoạt động, đặc điểm có thể so sánh với nhau. VD: Bàn tay của bà có thể so sánh với quả mướp héo, vì đều có đặc điểm nhăn nheo giống nhau. - Chiếc đồng hồ có thể so sánh với anh công nhân, vì đều làm việc chăm chỉ. Việc làm này giúp học sinh hiểu và nhớ: Muốn sử dụng phép so sánh thì phải có hai sự vật trở lên và hai sự vật được so sánh với nhau phải có những yếu tố tương đồng (giống nhau). Khi dạy học trò về nhân hoá, tôi yêu cầu học sinh quan sát và tìm những từ chỉ đồ vật, con vật xung quanh, tìm những từ thường nói về người có thể ghép với chúng để sử dụng phép nhân hoá. VD: Bác đồng hồ Chú mèo mướp Cây dừa sải tay bơi, Từ đó, các em nhớ kỹ rằng: Dùng những từ thường chỉ người để gắn cho sự vật, hiện tượng chính là nhân hoá sự vật hiện tượng đó. Nhờ đó, học sinh dần biết sử dụng các phép nhân hoá, so sánh (ở mức độ đơn giản) bước đầu biết vận dụng vào các trường hợp cụ thể một cách hợp lý, có chọn lọc và sáng tạo. Càng ngày, các em càng sử dụng từ đúng hơn, trong sáng hơn, góp phần “Giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của Tiếng Việt”. * Đặt câu, sử dụng câu. Sau khi học sinh của lớp đã tìm được nhiều từ ngữ, tôi cho các em tiến hành đặt câu và ghi các câu đã đặt vào bảng nhóm. Giáo viên yêu cầu các em đánh dấu những câu mình đã đặt. VD: Học sinh 1 trong nhóm ghi các câu của mình đặt được là 1 Trang 7
  8. Việc làm này giúp giáo viên quan sát và đánh giá được mức độ tiến bộ của từng đối tượng học sinh, biết được điểm mạnh, điểm yếu của từng em để có kế hoạch bồi dưỡng hoặc phụ đạo thêm. * Cho sẵn chủ đề, yêu cầu học sinh tìm từ và đặt câu. Để phát huy khả năng tư duy của mỗi đối tượng học sinh, tôi thường đưa ra một chủ đề và yêu cầu các em tìm từ xoay quanh chủ đề đó. VD: Nhà em nuôi một con chó hoặc con mèo. Hãy tìm từ ngữ chỉ một vài đặc điểm của con vật ấy. Sau khi học sinh tìm được từ ngữ ấy như: sủa gâu gâu, màu vàng, chân khoẻ, giáo viên yêu cầu các em đặt câu để diễn tả cảm nghĩ của mình. Các câu đều được ghi lên bảng nhóm rồi cử người trình bày. Khi thực hiện hoạt động này, tôi nhận thấy các em đã bước đầu bộc lộ tính cách riêng trong việc dùng từ, đặt câu. Trên cơ sở biết đặt câu thành thạo, học sinh dễ dàng có khả năng viết được một đoạn văn ngắn theo chủ đề cho trước. Việc làm này rất hữu ích, vì trong thời gian của một tiết học, thay vì một em có thể chỉ tìm được một, hai từ và đặt được một hai câu, thì nay có được hàng chục từ ngữ, câu văn do học hỏi ở bạn bè. Các em còn được tạo điều kiện để sửa câu sai, chọn câu hay và phù hợp với ngữ cảnh, dựa vào những câu từ đã có, học sinh dễ viết được một đoạn văn đạt kết quả tốt. Cũng qua việc làm này, các em còn được rèn luyện thêm về chính tả, sử dụng dấu câu, Cách lựa chọn và sắp xếp ý trong đoạn văn. Đồng thời, học sinh cũng phát huy được năng lực hợp tác trong học tập, biết cách trao đổi trong nhóm để chọn ý hay, sau đó thống nhất cách thực hiện mà nhóm cho là tốt nhất. Qua các biện pháp nêu trên, tôi luôn tạo cơ hội cho học sinh được nói (trình bày miệng), được mạnh dạn trình bày và biết cách trình bày một vấn đề nào đó trước tập thể. Từ đó giúp các em rèn kỹ năng giao tiếp, tập biểu hiện thái độ, cử chỉ khi trình bày để tăng phần biểu cảm, tăng sức thuyết phục của vấn đề mà mình trình Trang 8
  9. bày. Cũng nhờ vậy, các em tự tin hơn trong giao tiếp, mạnh dạn hơn khi nói chuyện trước đông người. Sau khi học sinh trình bày miệng, tôi yêu cầu các em viết lại vào vở và tranh thủ chấm chữa, chỉnh sửa cho các em. 2/ Kết quả đạt được Nhờ sự quyết tâm cùng với lòng yêu nghề mến trẻ, lúc nào cũng mong muốn học sinh mình đạt kết quả cao khi thực hành Tiếng Việt. Bản thân tôi đã áp dụng những kỹ năng nêu trên vào những tiết bồi dưỡng học sinh ở lớp ghép 2 + 3 Trường Tiểu Học Thạnh Hưng 2 nhưng đến ngày 15/3/2011 do công tác tổ chức của phòng nên phải trả điểm trường lại cho trường tiểu học Thạnh Hưng 3, biết được điều đó nên tôi lên kế hoạch khảo sát lại và thu được kết quả như sau: Nhóm trình độ 2 : Lớp Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 2+3 9/2 2 22,22 2 22,22 5 55,55 Nhóm trình độ 3 : Lớp Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu Số lượng % Số lượng % Số lượng % Số lượng % 2+3 7/1 2 28,57 3 42,85 2 28,57 IV/ Kết luận: 1/ Tóm lược biện pháp Môn Tiếng Việt ở Tiểu học được phát biểu như sau: - Môn Tiếng Việt bước đầu dạy cho học sinh nhận biết được những tri thức sơ giản, cần thiết bao gồm ngữ âm, chữ viết, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp, chính tả. Trên cơ sở đó rèn luyện các kỹ năng ngôn ngữ: nghe nói, đọc viết, nhằm giúp học sinh sử dụng Tiếng Việt có hiệu quả trong suy nghĩ và trong giao tiếp. Trang 9
  10. - Dạy học Tiếng Việt nhằm phát triển năng lực trí tuệ và phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh. Thông qua môn Tiếng Việt dạy học cho học sinh những thao tác tư duy cơ bản, dạy cách học tập và rèn luyện những thói quen cần có ở cấp Tiểu học. - Môn Tiếng Việt cần gợi mở cho học sinh cảm nhận cái hay, cái đẹp của ngôn từ Tiếng Việt và hiểu được phần nào cuộc sống xung quanh. Môn Tiếng Việt bồi dưỡng cho học sinh những tình cảm chân chính, lành mạnh như: Tình cảm gia đình, tình thầy trò, tình bạn, tình yêu quê hương, đất nước, con người, đồng thời hình thành và phát triển ở học sinh tiểu học những phẩm chất tốt đẹp. 2/ Phạm vi áp dụng của đề tài: “Một vài biện pháp giúp học sinh vùng khó khăn thực hành tốt môn Tiếng Việt lớp 2 + 3 Trường Tiểu học Thạnh Hưng 2” 3/ Bài học kinh nghiệm: Sau một thời gian thực hiện các biện pháp nêu trên tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm muốn chia sẽ cùng đồng nghiệp. (1) Ngay từ đầu năm học, phải thực hiện tốt công tác chủ nhiệm bằng cách trao đổi với giáo viên lớp trước để nắm bắt năng lực học tập của các em học sinh. Đồng thời, thông qua bài kiểm tra chất lượng đầu năm để tìm ra điểm mạnh, điểm yếu về sử dụng Tiếng Việt của mỗi học sinh. Phải trò chuyện trao đổi với từng học sinh và phụ huynh để tìm ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế trong việc sử dụng từ ngữ của các em, đưa ra các giải pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. (2) Khi tổ chức các tiết rèn kỹ năng Tiếng Việt, giáo viên cần liệu trước những tình huống xảy ra để có hướng giải quyết kịp thời những khó khăn, vướng mắc của học sinh, tránh nhận xét và trả lời chung chung, không mang tính thuyết phục. Quá trình hướng dẫn học sinh thực hành, giáo viên cũng phải hết sức kiên trì, khéo léo, nhất là trong bước đánh giá và nhận xét. Làm sao để từng bước giúp học sinh tìm ra, thu nhận được vốn từ nhiều hơn, đúng văn cảnh hơn. Trang 10
  11. (3) Cần tạo ra môi trường học tập thật thân thiện cho các em, giúp các em hoạt động tốt hơn trong hoạt động nhóm, phát huy tinh thần “Học thầy không tày học bạn”. Từ đó, các em sẽ ngày càng tiến bộ về các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết Tiếng Việt. (4) Nên tổ chức linh hoạt các hình thức học tập (Nhất là thông qua hình thức trò chơi phù hợp với lứa tuổi). Từ đó tạo điều kiện để học sinh tham gia tích cực, kích thích tinh thần thi đua và sáng tạo, phát huy tốt nhất năng lực cá nhân trong quá trình học tập hợp tác của học sinh. (5) Nên động viên khen thưởng học sinh kịp thời. Đây chính là động lực lớn giúp các em phấn chấn tinh thần, tích cực tham gia vào các hoạt động học tập trên lớp. Nhờ động viên học sinh trong các tiết rèn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt hoặc trong các giờ bồi dưỡng học sinh yếu tôi đã thu được kết quả đáng mừng. Từ tâm lý sợ học các tiết luyện từ và câu, Tập làm văn, nay các em rất hào hứng khi tham gia vào tiết học này và học môn Tiếng Việt tốt hơn. => Tuy nhiên việc làm nào cũng có thuận lợi và khó khăn, thành công và thất bại. Do đó trong quá trình thực hiện người giáo viên phải làm thường xuyên, tập tính kiên trì, nhẫn nại thì mới đạt kết quả. Trên đây là: “ Một vài biện pháp giúp học sinh vùng khó khăn thực hành tốt môn Tiếng Việt lớp 2 +3 Trường Tiểu học Thạnh Hưng 2 ” mà tôi đã áp dụng cho lớp mình. Nếu có gì chưa đúng, chưa hay hoặc còn thiếu sót mong Ban giám khảo, Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm góp ý cho đề tài này hoàn thành tốt hơn. Thạnh Hưng, ngày 19 tháng 05 năm 2011 Người viết Huỳnh Minh Vũ Trang 11
  12. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM PHẦN I: LÝ LỊCH - Họ và tên: Châu Ngọc Phượng - Chức vụ: Giáo viên - Đơn vị công tác: Trường Tiểu Học Thạnh Hưng 2, Thạnh Hưng, Giồng Riềng, Kiên Giang. - Tên đề tài: “ Một vài biện pháp giúp học sinh khắc phục sai lầm khi học số thập phân”. PHẦN II: NỘI DUNG I/ Lời nói đầu: 1/ Lý do chọn đề tài. Năm học 2010-2011 là năm học thực hiện chủ đề “đổi mới công tác quản lý và nâng cao chất lượng giáo dục”. Vì vậy, mỗi chúng ta những người làm công tác giáo dục đều phải lo lắng trăn trở, tập trung nâng cao chất lượng dạy học nhằm đáp ứng mục tiêu giáo dục. Cũng như các môn học khác, môn Toán có vai trò quan trọng trong việc hình thành nhân cách người lao động. Số thập phân là một trong những khái niệm rất quan trọng trong chương trình Toán tiểu học nói riêng và trong cuộc sống hằng ngày nói chung. Thực tế trong quá trình giảng dạy về số thập phân, số tự nhiên và phân số. Đồng thời do thiếu kinh nghiệm về những sai lầm của học sinh khi tiếp thu nội dung này, quá trình giảng dạy của giáo viên còn máy móc dẫn đến tình trạng học sinh hiểu bài một cách mơ hồ và thường có những sai sót trong quá trình làm bài. Qua thực tế giảng dạy, tôi đã nghiên cứu và tìm hiểu về đề tài “ Một vài biện pháp giúp học sinh khắc phục sai lầm khi học số thập phân”. 2/ Sơ lược lịch sử. Môn Toán Tiểu học có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động kỹ năng tính cho học sinh cụ thể là: Hình thành ở các em kiến thức mới và khả năng thực hiện các bài tập thực hành. Nếu muốn hiểu cặn kẽ thì chính là quá trình chuyển dạng từ Trang 12
  13. lý thuyết sang thực hành hay nói một cách khác thì học Toán là giải quyết một khối lượng công việc từ tư duy sang hành động cụ thể. 3/ Phạm vi đề tài. “ Một vài biện pháp giúp học sinh khắc phục sai lầm khi học số thập phân”. Được áp dụng cho toàn học sinh khối 5. II/ Thực trạng vấn đề: 1/ Về khái niệm số thập phân: Ở những tiết đầu khi học về khái niệm số thập phân, nhiều em còn nhầm lẫn giữa phần nguyên và phần thập phân của một số thập phân. Khi chuyển từ phân số thập phân hoặc hổn số ra số thập phân và ngược lại, nhiều em chuyển sai nhất là các trường hợp số chữ số ở tử số ít hơn hoặc bằng số chữ số ở mẫu số. 2 13067 Ví dụ: = 0,2 ; = 0,37 10 100 Hoặc: 0,05 = 5 ; 13,067 = 13067 10 100 Các em hiểu máy móc các hàng của số thập phân và chưa biết các cách đọc các số thập phân nên khi viết số còn lúng túng. Ví dụ: - Năm đơn vị, chín phần mười đơn vị -> Học sinh thường không viết sai. - Năm đơn vị mười chín phần trăm -> học sinh viết là 5,9. - Năm đơn vị mười chín phần trăm đơn vị-> Học sinh viết 5,019 nhưng nếu đọc là năm đơn vị, một phần mười và chín phần trăm đơn vị thì học sinh ít viết sai. Khi học số thập phân bằng nhau, có một số em bỏ tất cả các chữ số 0 ở phần thập phân và viết 0,02000 = 0,2. Hay khi làm bài tập, học sinh chỉ khẳng định 0,100 =100 là đúng mà không chỉ ra được 0,100 = 100 và vì sao? 1000 1000 Trang 13
  14. Khi học về so sánh hai số thập phân nhiều học sinh nhầm lẫn: số thập phân nào có phần thập phân gồm nhiều chữ số hơn thì số thập phân đó lớn hơn. Từ việc ngộ nhận một kết quả đúng. Ví dụ: 28,76 Học sinh thường nghĩ việc suy luận của mình là đúng và giáo viên nếu không chú ý sẽ không chỉ ra sai lầm của học sinh. 2/ Về các phép tính với số thập phân: Lỗi học sinh thường mắc khi học 4 phép tính với số thập phân là quên đặt dấu phẩy ở kết quả. Đối với từng phép tính, học sinh mắc các lỗi sau: - Khi học phép cộng hai hay nhiều số thập phân, sai lầm cơ bản nhất của học sinh là đặt tính. Nếu số chữ số ở phần nguyên và phần thập phân của các số hạng bằng nhau. (ví dụ: 15,284 + 32,427) thì các em ít sai nhưng số chữ số ở phần nguyên và phần thập phân của các số hạng không bằng nhau (ví dụ: 1,53 + 15,3) hoặc cộng số thập phân với số tự nhiên thì nhiều em đặt tính sai, dẫn đến kết quả sai và đặt dấu phẩy tùy tiện ở tổng. - Khi trừ hai số thập phân, nếu số chữ số ở phần thập phân của số bị trừ ít hơn số chữ số ở phần thập phân ở số bị trừ thì học sinh thường hiểu sai bản chất phép trừ và làm sai. Ví dụ: 3,7 17,0 - 2,891 - 2,361 0,991 14,761 - Khi học về phép nhân số thập phân, các em học sinh thường mắc sai lầm cơ bản là đặt cả dấy phẩy ở tích riêng hoặc không đặt dấu vị trí của dấu phẩy ở tích chung (hoặc quên không viết dấu phẩy ) - Khi học chia số thập phân, học sinh chưa hiểu rõ bản chất của việc gạch bỏ dấu phẩy ở số bị chia, số chia hay viết thêm chữ số 0 vào bên phải của số bị chia nên thực hiện còn lúng túng. Đặc biệt, việc xác định số dư trong phép chia số thập phân Trang 14
  15. là rất mơ hồ đối với học sinh. Các em hãy xác định sai số dư trong các phép chia này. Ví dụ: 27 7 60 3,85 40 5 Học sinh thường trả lời số dư trong phép chia này là 5 mà không giải thích được chữ số 5 ở hàng phần trăm nên số dư là 0,05. => Từ những sai lầm thường mắc phải của học sinh đã nêu trên, tôi suy nghĩ và trao đổi với đồng nghiệp để tìm ra một số biện pháp có hiểu quả nhất để khắc phục những tồn tại đó. III/ Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục sai lầm khi học số thập phân . 1/ Khi dạy khái niệm số thập phân: - Để học sinh không nhằm lẫn giữa phần nguyên và phần thập phân. Giáo viên cho học sinh lấy nhiều ví dụ về số thập phân, xác định phần nguyên và phần thập phân của mỗi số và điền vào bảng. Số thập phân Phần nguyên Phần thập phân - Để dạy học sinh viết số thập phân, cần hướng dẫn các em viết từng chữ số vào từng hàng của số thập phân (mỗi hàng chỉ gồm một chữ số ) hàng nào không có thì viết chữ số 0. Trang 15
  16. Dấu Phần nguyên Phần thập phân Hàng phẩy Viết Hàng Hàng Hàng Hàng Hàng Hàng Hàng số , phần phần phần nghìn trăm chục đơn vị Đọc số mười trăm nghìn Năm đơn vị, chín 5 9 5,9 phần mười đơn vị Năm đơn vị, chín 5 0 9 5,09 phần trăm đơn vị 25 đơn vị, 19 2 5 1 9 25,19 phần trăm đơn vị - Khi hướng dẫn các em chuyển từ phân số hoặc hỗn số ra số thập phân, nên dạy các em đưa hỗn số hoặc phân số đó về dạng phân số thập phân (có mẫu số là 10, 100, 1000 .) Sau đó đếm ở mẫu số của phần số thập phân xem có bao nhiêu chữ số 0, rồi dùng dấu phẩy tách ra ở tử số bao nhiêu chữ số kể từ phải sang trái . Ví dụ : 95 = 95 vì 10 có nột chữ số 0 nên tách ở tử số ra một chữ số, được 9,5 10 3 = 6 = 0,6 ; 52 = 27 = 54 = 5,4 5 10 10 5 10 - Khi chuyển từ số thập phân thành phân số thập phân. Học sinh cần đếm ở phần thập phân của số thập phân có bao nhiêu chữ số thì ở mẫu số của phân số thập phân có bấy nhiêu chữ số 0 đứng sau chữ số 1, tử số của phân số thập phân là số thập phân bỏ dấu phẩy Ví dụ: 25,315 có ba chữ số ở phần thập phân nên mẫu số có ba chữ số 0, tử số là 25 315 nên 25,315 = 25315 1000 Trang 16
  17. - Khi dạy về số thập phân bằng nhau phải nhấn mạnh yêu cầu chỉ bỏ (hoặc thêm) các chữ số 0 ở tận cùng bên phải dấu phẩy, còn nếu học sinh nhầm lẫn bỏ và thêm chữ số 0 ở giữa thì cần giải thích cho các em hiểu vì sao không làm như vậy được. Ví dụ: 5,0200=5,2 cần nhấn mạnh chữ số 2 của số 5,0200 ở hàng phần trăm còn chữ số 2 của số 5,2 ở hàng phần mười nhưng nếu các em làm vậy thì giá trị của số đã bị thay đổi, từ đó các em sẽ hiểu và viết được đúng 5,0200=5,02 - Khi so sánh các số thập phân có phần nguyên bằng nhau, giáo viên cần nhấn mạnh. Không phải số thập phân nào có phần thập phân gồm nhiều chữ số hơn thì số đó lớn hơn mà phải dựa vào giá trị của các chữ số ở các hàng tương ứng Ví dụ : 5,87 > 5,827 (vì hàng phần trăm có 7 > 2). - Khi so sánh các số thập phân phải yêu cầu học sinh giải thích để giáo viên phát hiện sai lầm của các em kịp thời. Từ đó giúp các em hiểu bài tại lớp. 2/ Khi dạy bốn phép tính với số thập phân: - Để khắc phục hiện tượng học sinh đặt tính sai hoặc hiểu sai bản chất của phép cộng, phép trừ hai hay nhiều số thập phân, giáo viên nên hỏi lại cách đặt tính cộng, trừ các số tự nhiên và nhấn mạnh: các chữ số ở cùng hàng đặt thẳng cột với nhau, hàng đơn vị đặt thẳng cột hàng đơn vị, hàng chục đặt thẳng cột hàng chục Ở số thập phân cũng vậy, sau đó cho học sinh thực hành một số ví dụ cộng số tự nhiên với số thập phân, yêu cầu các em chỉ ra trong số hạng thứ nhất chữ số nào ở hàng đơn vị, chữ số nào ở hàng chục , chữ số đó đặt thẳng cột với chữ số nào của số hạng thứ hai. Trong quá trình luyện tập nên hỏi vì sao các em đặt tính như vậy để củng cố lại, đồng thời cho các em hiểu kĩ hơn. - Khi dạy phép trừ số thập phân, cần hướng dẫn các em đặt tính như phép cộng và trường hợp số chữ số ở phần thập phân của số bị trừ ít hơn số chữ số ở phần thập phân của số trừ thì các em nên viết thêm chữ số 0 vào tận cùng bên phải phần thập Trang 17
  18. phân của số bị trừ để số chữ số phần thập phân của 2 số bằng nhau rồi mới thực hiện phép trừ. - Khi dạy phép nhân hai số thập phân để giúp các em không đặt sai vị trí dấu phẩy, sau khi xây dựng khái niệm, nên lấy một số ví dụ về phép nhân hai số thập phân và hỏi: không thực hiện phép tính, hãy cho biết kết quả của từng phép nhân có bao nhiêu chữ số ở phần thập phân? vì sao?. Ví dụ: 13,5 x 32,75. Có 3 chữ số ở phần thập phân có tích vì thừa số thứ nhất có một chữ số ở phần thập phân, thừa số thứ hai có hai chữ số ở phần thập phân ( 1 + 2 = 3) - Khi dạy phép chia số thập phân cần giải thích cho học sinh hiểu bản chất của việc gạch bỏ dấu phẩy ở số chia là ta đã nhân số chia với 10, 100, 1000 và khi gấp số chia lên bao nhiêu lần để giá trị của thương không thay đổi. - Để học sinh xác định chính xác số dư trong phép chia số thập phân. Giáo viên cần giảng cho học sinh hiểu: trong phép chia có thương là số tự nhiên thì số dư là duy nhất. Còn trong phép chia có thương là số thập phân thì giá trị của số dư có thể là không duy nhất. Trong phép chia có thương là số thập phân thì giá trị của số dư phụ thuộc vào số chữ số ở phần thập phân của thương (Nếu phần thập phân của thương có bao nhiêu chữ số thì phần thập phân của số dư có bấy nhiêu chữ số.) Ví dụ: 27 7 27 7 27 7 6 3 60 3,85 60 3,857 dư 6 40 40 5 50 dư 0,05 dư 0,001 Điều giáo viên cần đặc biệt lưu ý với học sinh là: khi thực hiện bốn phép tính với số thập phân thì kết quả thường là số thập phân nên sau khi thực hiện phép tính các em cần chú ý xác định vị trí của dấu phẩy để có kết quả đúng. Trang 18
  19. Số thập phân là một trong những nội dung trọng tâm của chương trình Toán 5. Vì vậy, cùng với những biện pháp để giúp học sinh tránh được những sai lầm nêu trên. Giáo viên cần có thái độ nghiêm túc, nghiên cứu kĩ bài dạy trước khi lên lớp, dự đoán trước những tình huống có thể xảy ra và cách giải quyết các tình huống đó, đồng thời sử dụng các phương pháp dạy học giúp học sinh nắm chắc các kiến thức, kĩ năng cơ bản của bài học và vận dụng thành thạo các kiến thức đó vào trong học tập cũng như trong cuộc sống. Sau khi các em làm thành thạo bốn phép tính cộng, trừ, nhân, chia. Tôi đặc biệt chú ý đến việc giải Toán có lời văn. Tôi lựa chọn cách dạy phù hợp để các em dễ tiếp thu nội dung bài học, nhớ kĩ từng dạng bài toán. Khi hướng dẫn các em học tập ở nhà tôi cân nhắc kĩ, giao việc phù hợp với từng đối tượng học sinh cụ thể là: + Bài tập dành cho học sinh cả lớp. + Bài tập dành cho học sinh khá, giỏi. + Riêng đối với học sinh yếu, kém tôi thường ghi bài tập vào phiếu và kèm theo một vài câu hỏi để học sinh có thể tự kiểm tra hay chỉ rõ ý chính cần đi sâu, nhớ kĩ. Bài tập do các em làm, tôi yêu cầu phụ huynh kí vào phía sau để cho thấy có sự giám sát và đôn đốc kịp thời của gia đình. Đến lớp, tôi kiểm tra cụ thể các sai lầm mắc phải của học sinh để phân tích, sửa chữa khuyến khích động viên đúng lúc khi các em có sự tiến bộ hay đạt được mốt số kết quả (dù rất khiêm tốn) phân tích phê bình đúng mức thái độ vô trách nhiệm hoặc lơ là đối với nhiệm vụ học tập, nhưng tuyệt đối tránh thái độ, lời nói chạm lòng tự ái học sinh. Ở lớp cũng như ở nhà, tôi tổ chức cho học sinh khá, giỏi thường xuyên giúp đỡ các bạn yếu, kém. Trên lớp, tôi sắp xếp một học sinh giỏi ngồi cạnh học sinh kém và phân công bạn học sinh giỏi giúp đỡ bạn học sinh yếu bên cạnh. Tôi tổ chức thi đua giữa các nhóm giúp đỡ bạn. Nếu bạn nào tiến bộ, tôi biểu dương cả nhóm vào tiết sau. Ở nhà tôi sắp xếp các em gần nhà nhau một nhóm và cử một em làm nhóm trưởng. Nhóm trưởng có nhiệm vụ nhắc nhở, kiểm tra việc học bài, làm bài của các Trang 19
  20. bạn và báo cáo với cô chủ nhiệm vào đầu giờ học. Không những thế, tôi còn yêu cầu các em nhóm trưởng kiểm tra kĩ về cách học, cách trình bày và chữ viết của các bạn. Tôi kiên trì sửa những thói quen xấu của các em như: chưa đọc kĩ đề lại làm bài, tính toán cẩu thả, không làm nháp hoặc viết lộn xộn, phát biểu không chính xác, trình bày tùy tiện, giải toán xong không chịu thử lại. 3/ Kết quả đạt được: Khi áp dụng giải pháp trên, tuy vất vả nhưng tôi vẫn tìm thấy niềm vui trong công việc và càng thấy yêu nghề hơn. Bởi giờ đây các em học sinh ở lớp tôi đã tiến bộ lên rất nhiều, chất lượng học tập ngày càng nâng lên không còn học sinh yếu, kém về Toán. Số lượng học sinh thích học môn Toán ngày càng tăng. Kết quả khảo sát chất lượng cuối học kì II về môn Toán ở lớp tôi thật đáng mừng. Tổng số Điểm 9 -10 Điểm 7 - 8 Điểm 5 - 6 Điểm Dưới 5 học sinh SL TL SL TL SL TL SL TL 29 4 13,79% 3 10,34% 22 75,86 % IV/ Kết luận: Toán học là khoa học suy diễn, nhưng kiến thức Toán ở Tiểu học được hình thành trực quan qua quan sát, đo, đếm và thực hành. Kiến thức môn Toán ở Tiểu học khá đơn giản, chủ yếu giúp học sinh hiểu được biểu tượng Toán học ở mức độ nhận biết nên quá trình nhận thức Toán học ở Tiểu học chủ yếu là nhận thức cảm tính. * Đặc điểm tâm lý của học sinh tiểu học: Học sinh tiểu học, hiếu động, ham hiểu biết. Các em thích được tìm hiểu khám phá hơn là phải chấp nhận sự thông báo hay áp đặt. Học sinh không thể ngồi thụ động nghe giảng bài. Các em muốn và đủ khả năng thực hiện các hoạt động học do giáo viên thiết kế. Ngày nay, kiến thức đến với học sinh bằng nhiều nguồn thông Trang 20
  21. tin khác nhau vì thế các em càng không thể chấp nhận sự áp đặt của người khác mà muốn tự bổ sung tri thức, tự khẳng định mình, tự khám phá trong quan hệ hợp tác với bạn bè và giáo viên. * Đối với phương pháp dạy học: Trong quá trình dạy học môn Toán, giáo viên không áp đặt, không thông báo kiến thức có sẵn mà là người tổ chức hướng dẫn học sinh thực hiện các hoạt động học tập. Các hoạt động này thiết kế giống như quá trình hình thành kiến thức Toán học trong thực tế. Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học là giáo viên phải tổ chức cho học sinh tham gia vào các hoạt động học. Giáo viên giao nhiệm vụ bằng những câu lệnh ngắn gọn dễ hiểu. Học sinh thực hiện các lệnh đó bằng các việc làm, các việc làm được tổ chức sắp xếp một cách logíc để đến khi kết thúc việc làm cuối cùng thì một đơn vị kiến thức mới hình thành. Giáo viên có thể kiểm soát được hoạt động học tập của học sinh từ khi bắt đầu đến kết thúc hoạt động này qua quá tình dạy học và sản phẩm học sinh có được. Nhờ nghiên cứu một vài biện pháp giúp học sinh khắc phục sai lầm khi học số thập phân. Tôi đã giúp cho nhiều học sinh lớp mình phát hiện sai lầm và khắc phục giải Toán tốt hơn. Học sinh hình thành tốt kỹ năng và ít học sinh bị nhầm lẫn như trường hợp nêu trên. => Tuy nhiên việc làm nào cũng có thuận lợi và khó khăn, thành công và thất bại. Do đó đòi hỏi người giáo viên phải thật kiên trì, nhẫn nại thì mới thành công. Trên đây là: “Một vài biện pháp giúp học sinh khắc phục sai lầm khi học số thập phân” mà tôi đã áp dụng thành công ở lớp mình. Nếu trong quá trình chấm có gì chưa hay, chưa đúng hoặc còn thiếu sót. Mong Ban giám khảo, Hội đồng chấm sáng kiến kinh nghiệm đóng góp ý kiến để tôi rút kinh nghiệm cho lần sau. Xin chân thành cảm ơn. Trang 21
  22. Thạnh Hưng, ngày 19 tháng 05 năm 2011 Người viết Châu Ngọc Phượng Trang 22